Sau 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển ấn tượng với những kết quả nổi bật. Quy mô kinh tế Việt Nam tăng gấp 12 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất – nhập khẩu tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần. Tỉ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 tính theo chuẩn mới.
Nội dung trên đã được Ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương dẫn tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4 với chủ đề “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế sâu rộng trong tình hình mới”, do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Chính phủ và UBND TP.HCM tổ chức.
Về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021-2030, ông Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, thông qua tại Đại hội XIII của Đảng đã xác định quan điểm “Xây dựng nền kinh tế tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế. Phải hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ bên ngoài. Phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại”.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh
Việt Nam vẫn là nền kinh tế gia công, lắp ráp là chính
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn và gia công, lắp ráp là chủ yếu. Năng lực tự chủ của ngành công nghiệp còn ở mức thấp với việc nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu chính cho sản xuất công nghiệp…
Trong những năm qua, mặc dù xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo có sự cải thiện nhưng các yếu tố nền tảng còn ở mức thấp. Nền kinh tế Việt Nam hội nhập cao, có độ mở lớn nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường và cơ cấu thiếu bền vững dẫn đến bị phụ thuộc.
Những bất cập trên đã làm cho tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra; thu nhập bình quân đầu người gia tăng với tốc độ chậm và vẫn nằm ở mức thấp, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nền kinh tế còn yếu; yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng rút ngắn đứng trước nhiều thách thức; năng suất lao động còn thấp so với yêu cầu phát triển…
Trong 2 năm qua, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối diện với hàng loạt những khó khăn chưa có tiền lệ do đại dịch COVID-19 gây nên. Đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự đồng tình và ủng hộ của người dân và doanh nghiệp, chúng ta đã chuyển sang chuyển trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Kết quả cho thấy Việt Nam đã kiểm soát tốt được dịch bệnh, phục hồi nhanh các hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Kinh tế quý 1/2022 đã quay trở lại đà tăng trưởng cao, đạt trên 5%. Các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng đều tăng mạnh, niềm tin của người các nhà đầu tư tăng mạnh.
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P vừa nâng hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam từ BB lên BB+, ghi nhận nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi vững chắc và dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam khoảng 6,9% với xu hướng dài hạn là 6,5% – 7% từ năm 2023.
Theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, những kết quả về phát triển kinh tế xã hội rất đáng khích lệ trong những tháng đầu năm 2022 cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục dần trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh như trước đại dịch.
Tuy nhiên, tác động của đại dịch vừa qua cùng với sự xuất hiện nhiều biến cố mới thuộc về bối cảnh quốc tế, điển hình là xung đột tại Ukraine đã và đang đặt ra yêu cầu Việt Nam cần đẩy nhanh hơn, quyết liệt hơn, thực chất và hiệu quả hơn việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Những kiến nghị của doanh nghiệp gửi tới Chính phủ
Về chuỗi cung ứng lao động ổn định sau đại dịch Covid-19, các đại biểu kiến nghị Chính phủ coi trọng phát triển thị trường lao động là nền tảng trụ cột của nền kinh tế; đảm bảo quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ và ổn định vì lợi ích chung của người lao động và người sử dụng lao động.
Cũng như, xây dựng và hoàn thiện thể chế điều chỉnh quan hệ cung cầu thị trường lao động, việc làm phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; có chính sách khuyến khích phân bố lao động các ngành sản xuất theo quy luật thị trường và phù hợp với điều kiện thực tiễn, gắn với đồng bộ chính sách an sinh xã hội, đào tạo và đạo lại lao động; đảm bảo thống nhất hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước về lao động, việc làm. Tạo tính gắn kết chặt chẽ giữa thị trường lao động với thị trường sản xuất hàng hóa dịch vụ và thị trường đào tạo kỹ năng lao động;
Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu thống kê và chế độ báo cáo liên quan đến quản lý lao động, việc làm; từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động gắn với cơ sở dữ liệu dân cư, an sinh xã hội…để giúp quá trình ra quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở hơn và tạo nền móng ứng dụng kỹ thuật số, dữ liệu lớn vào quản lý lao động.
Toàn cảnh Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4
Về phát triển thị trường vốn, một số kiến nghị được nêu ra tại hội thảo, gồm: Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường vốn bao gồm cả thị trường ngân hàng, theo hướng tăng cường minh bạch, phát triển ổn định và bền vững tạo điều kiện đẩy mạnh xu hướng chuyển đổi số trên thị trường vốn và ngân hàng; nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng của các định chế trung gian thị trường.
Đẩy mạnh vai trò nhà nước trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công để hướng đầu tư tư nhân vào các mục tiêu phát triển phục hồi kinh tế, phát triển xanh… đáp ứng các cam kết về giảm phát thải.
Tích cực triển khai các giải pháp để sớm nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong đó chú trọng các giải pháp đa dạng hóa sản phẩm thông qua thúc đẩy cổ phần hóa và tăng cường tính minh bạch trong quản lý, quản trị doanh nghiệp.
Tích cực triển khai lộ trình xây dựng và phát triển TP.HCM thành trung tâm tài chính quốc tế, hình thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế.
Cũng như, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tăng cường kênh dẫn vốn từ hệ thống ngân hàng thương mại trong đó xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm cho ngân hàng, tạo môi trường thử nghiệm có điều kiện Sanbox; xây dựng Trung tâm Quản lý và khai thác dữ liệu tập trung của hệ thống Ngân hàng và đầu tư phát triển nguồn nhân lực số phục vụ quá trình chuyển đổi số.
Đối với thị trường bất động sản cần đẩy mạnh các chính sách thúc đẩy tính minh bạch trên thị trường bất động sản. Loại bỏ những quy định mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bất động sản như đất đai, xây dựng, nhà ở, v.v…; tạo điều kiện và đảm bảo quyền tiếp cận nguồn lực đất đai công bằng giữa các nhà phát triển bất động sản; phát huy vai trò của “Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh”, nhất là ở các thành phố lớn, tập trung đông dân cư thành một công cụ điều tiết hữu hiệu theo cơ chế thị trường.
Tạo nguồn vốn cho thị trường bất động sản đa dạng hóa thông qua các kênh: phát hành trái phiếu doanh nghiệp, hợp đồng góp vốn, cân nhắc mở rộng các hình thức mới như phát triển quỹ đầu tư bất động sản, quỹ tín thác, quỹ hưu trí, hoạt động M&A…
Có cơ chế chính sách điều tiết đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ bản về nhà ở của người dân như: Chương trình phát triển nhà ở xã hội; hỗ trợ xây dựng nhà ở giá rẻ; có chính sách hỗ trợ người có thu nhập trung bình có thể tiếp cận cơ hội sở hữu nhà ở.
Đẩy mạnh quá trình hình thành và từng bước hiện đại hóa, số hóa hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đến từng thửa đất. Xây dựng hệ thống thông tin đăng ký đất đai đầy đủ, khoa học, đảm bảo công khai, minh bạch và dễ dàng tiếp cận đối với mọi đối tượng.
Về đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng, để tận dụng các cơ hội, vượt qua thách thức, Hội thảo đã kiến nghị một số giải pháp: Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa các thành phần kinh tế.
Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các dự án đầu tư có công nghệ cao, khuyến khích chuyển giao công nghệ và thúc đẩy lan toả rộng rãi công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại.
Các chính sách nhà nước về khuyến khích và hỗ trợ chuyển đổi số, phát triển công nghệ số cần trung tính không phân biệt thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều tiếp cận như nhau với các chính sách của nhà nước; phát triển ưu tiên hạ tầng số, dữ liệu chủ trong các cơ sở dữ liệu có độ chính xác cao làm dữ liệu gốc.
Phân bổ hợp lý nguồn lực cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh; nâng cao năng lực và tính chủ động của các địa phương, tăng cường liên kết giữa các địa phương, các vùng; hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong doanh nghiệp công nghiệp hướng đến mô hình nhà máy thông minh; tăng cường liên kết KHCN&ĐMST giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu.
Bên cạnh đó, để nâng cao sức chống chịu và phục hồi của chuỗi cung ứng quốc gia, các ý kiến kiến nghị Chính phủ cần thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; gia tăng tỷ lệ nguồn cung trong nước nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu, quan trọng; nâng cao năng lực dự báo và chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với sự đứt gãy, gián đoạn của chuỗi cung ứng và tái cân bằng lại chuỗi cung ứng để đề phòng rủi ro có thể xảy ra.