Doanh nghiệp da giày “ngấm đòn” Covid-19

Theo số liệu của Hiệp hội da giầy túi xách Việt Nam (Lefaso), do tình hình đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, trong 9 tháng của năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ngành da giầy chỉ tăng 4,5% và Chỉ số sử dụng lao động của ngành giảm 23,8%. 

Dự báo xuất khẩu da giày sẽ còn giảm

Theo Lefaso, trong tháng 9/2021, xuất khẩu giầy dép giảm 44,2% và túi xách giảm 48%, tổng kim ngạnh xuất khẩu toàn ngành giảm 35,2%.

Tuy nhiên do các tháng đầu năm tăng cao, nên tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy vẫn tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2020, nhưng vẫn thấp hơn 3,1% so với năm 2019 (trước đại dịch). Trong đó giầy dép tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 0,5% so với cùng kỳ 2019; túi xách giảm 3,7% so với cùng kỳ 2020 và giảm 19,4% so với cùng kỳ 2019.

Dự báo kim ngạch xuất khẩu tiếp tục giảm mạnh trong các tháng cuối năm 2021 do tác động của đại dịch Covid-19 đối với sản xuất.

Trong 8 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy: đạt 14,75 tỷ USD, tăng 2,3%, trong đó xuất khẩu giầy dép đạt 12,64 tỷ USD tăng 4.4% và xuất khẩu túi xách đạt 2,11 tỷ USD giảm 8,8% so với cùng kỳ năm 2020 (Bảng 11). Đây là mức tăng thấp nhất trong các tháng của năm 2021. Xuất khẩu của doanh nghiệp FDI chiếm 79,0%, trong đó  giầy dép chiếm 80,5% và túi xách 70,1%.

Tại các châu lục, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy sang Bắc Mỹ tăng 19,6%, trong đó giầy dép tăng 23,4%, túi xách tăng 2,1%. Xuất khẩu da giầy sang Châu Âu tăng 4,9%, trong đó giầy dép tăng 8,0%, túi xách giảm 11,1%. Xuất khẩu da giầy sang châu Á giảm mạnh 15,9%, trong đó giầy dép giảm 15,1% và túi xách giảm 20,6%.

Tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy vào 05 thị trường lớn nhất của Việt Nam (Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) chiếm 81,2%, trong đó giầy dép chiếm 80,8% và túi xách chiếm 82,8%.

Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu da giầy lớn nhất của Việt Nam, với giầy dép chiếm tỷ trọng 41,0% và túi xách chiếm 44,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Viêt Nam. Tiếp theo là EU chiếm thị phần 22,9% về giầy dép và 22,1% về túi xách. Các thị trường khác là Trung Quốc (9,3% và 4,3%); Nhật Bản (4,7% và 8,6%) và Hàn Quốc (2,9 và 3,7%).

Chỉ số2017*2018*2019*2020*6T/2021*9T/2021*
GDP, % so cùng kỳ năm trước6.87.17.022,915,641,42%
CPI cả nước trung bình/tháng, %3.533.542.793,231.471.82%
Chỉ số sản xuất CN CBCT,%14.712.210.44.911.65.5%
Chỉ số SXCN da giầy. %7.110.49.9-2.412.94.5%
Chỉ số sử dụng lao động da giầy,%     -23,8%
CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ VÀ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP (Nguồn: TCTK)
*So với cùng kỳ năm trước  

Tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy vào 15 thị trường lớn nhất của Việt Nam chiếm 88,3%, trong đó giầy dép chiếm 87,8% và túi xách chiếm 91.0%.

Một điều đáng lưu ý, mặc dù bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xuất khẩu da giầy của Việt Nam sang các thị trường khu vực CPTPP, EVFTA, UKVFTA vẫn tăng trưởng (lần lượt 8,7%, 4,6%, 5,2%), phản ánh nhu cầu tiêu dùng đang phục hồi tại các khu vực này do tỷ lệ tiêm chủng cao. Trong khi các khu vực ASEAN và EAEU giảm (-7,1% và -5,3%), phản ánh nhu tình hình dịch bệnh vẫn đang trầm trọng tại châu Á và L.B. Nga.   

Khó khăn “bủa vây” doanh nghiệp

Theo đánh giá của Hiệp hội da giầy túi xách Việt Nam (Lefaso),  từ đầu tháng 5/2021 đến nay, dịch Covid-19 bùng phát trở lại và diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương trên cả nước, nhất tại các tỉnh phía Nam đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp.

Việc thực hiện giãn cách xã hội kéo dài hơn 3 tháng theo chỉ thị 16 của Chính phủ đã khiến 80% các nhà máy sản xuất da giầy tại TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Tiền Giang,… là những địa phương tập trung nhiều DN da giầy lớn trong các khu công nghiệp, chiếm 70% sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của ngành, phải đóng cửa do không đủ điều kiện thực hiện quy chế “3 tại chỗ” và “Một cung đường, hai điểm đến”.

Tại các địa phương miền trung và miền bắc, các DN da giầy hoạt động với công suất 50 – 80 %, do phải giãn cách xã hội và thiếu lao động.

Tại các doanh nghiệp còn hoạt động, sản xuất cũng bị suy giảm do người lao động phải làm việc giãm cách, đồng thời phát sinh nhiều chi phí do đứt gẫy chuỗi cung nguyên phụ liệu, chi phí phòng chống Covid (xét nghiệm, tiêm chủng, lo ăn, ở 3 tại chỗ cho người lao động). Các doanh nghiệp da giầy bị thiệt hại lớn do phải ngừng/giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho người lao động.

Tình trạng thiếu container rỗng, chi phí logistics và vận chuyển tàu biển quốc tế tăng cao (gấp 5-10 lần) xảy ra từ năm 2020 chưa trở về bình thường, cùng với chi phí nhiên liệu và giá nguyên phụ liệu nhập khẩu tăng cao đã ảnh hưởng nhiều tới sản xuất, gây nhiều khó khăn cho các DN xuât khẩu.

Trong thời gian qua Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ các DN gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và gỡ bỏ những quy định cản trở sản xuất và vận chuyển hàng hóa. Tuy nhiên do các quy định còn chặt chẽ về điều kiện được thụ hưởng và thủ tục hành chính phiền phức, đã khiến doanh nghiệp khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ này.

Từ cuối tháng 9/2021 tình hình dịch bệnh có cải thiện, nhưng việc phục hồi sản xuất trong điều kiện “bình thường mới” trên tinh thần sống chung với dịch bệnh sẽ phải mất nhiều tháng mới có thể trở lại mức trước khi xảy ra dịch bệnh. Nhiều lao động bỏ về quê tránh lay lan dịch bệnh, khó khăn trong việc đi lại, di chuyển giữa các địa phương do phong tỏa, giản cách xã hội, nên các doanh nghiệp thiếu lao động trầm trọng.

Vì vậy doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, tận dụng các chính sách hỗ trợ của nhà nước, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tinh thần cho các lao động trở lại làm việc trên cơ sở tuân thủ các quy định về an toàn dịch bệnh theo hướng dẫn của Bộ Y tế, và đặc biệt là tận dụng tốt các ưu đãi từ các hiệp định FTA (nhất là hiệp định CPTPP và EVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu trong các tháng cuối năm 2021.

Exit mobile version