Ngân hàng HSBC Việt Nam vừa nhận định về tỷ giá USD/VND và dự báo xu hướng đến cuối năm 2022. Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối Dịch vụ Tiền tệ, Thị trường Vốn và Chứng khoán cho biết:
Sau đợt điều chỉnh giảm giá mua vào của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xuống 22.750 vào ngày 11/8, tỷ giá USD/VND tiếp tục có xu hướng giảm cho đến nay.
Đầu tháng 9, cặp tỷ giá USD/VND được giao dịch quanh mức 22.760-22.770, đây cũng là mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tính riêng từ đầu năm 2021, tiền Đồng đã tăng giá khoảng 1,47% so với đồng bạc xanh.
VND cũng là một trong số ít ngoại tệ trong khu vực tăng giá so với đô la Mỹ kể từ đầu năm. Xu hướng này chủ yếu do sự thay đổi chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Ngày 20/7, theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong thời gian tới, cùng với quá trình hiện đại hóa khuôn khổ chính sách tiền tệ.
NHNN cam kết sẽ tiếp tục điều hành tỷ giá một cách chủ động, linh hoạt, phù hợp với quy mức độ phát triển của thị trường ngoại tệ và các yếu tố kinh tế, đảm bảo thị trường ngoại tệ hoạt động ổn định, thông suốt, giúp ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó giảm bớt lo ngại của Bộ Tài chính Mỹ.
Nhờ đó, kể từ tháng 6, NHNN đã giảm giá mua vào từ tổng cộng 375 VND xuống còn 22.750 VND, và thể hiện mức giảm tổng cộng 450 VND nếu tính từ tháng 11/2019 sau khi trải qua 6 lần điều chỉnh.
Xu hướng này cũng được cho là đi ngược lại với những năm trước, khi đồng Việt Nam thường xuyên mất giá so với đô la Mỹ. Mức độ giảm từ trước đến nay cũng được đánh giá là lớn hơn và sớm hơn dự kiến, tiếp tục thể hiện chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động của NHNN.
Ông Ngô Đăng Khoa cho biết, nhóm nghiên cứu toàn cầu của HSBC mong muốn Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì chính sách điều hành tỷ giá như thời gian qua, với mục tiêu tiếp tục giảm tỷ giá mua USD. Theo đó, Tỷ giá USD/VND dự kiến sẽ tăng từ 22.750 vào cuối quý 3 lên 22.525 vào cuối năm 2021.
Theo nhóm nghiên cứu, Vào thời điểm trước năm 2022, tỷ giá USD/VND sẽ đảo chiều về mức 23.000 VNDTrong bối cảnh thâm hụt cán cân vãng lai, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chững lại. Đồng VND có thể chịu áp lực từ việc đồng bạc xanh mạnh hơn trên thị trường tiền tệ quốc tế và đồng Nhân dân tệ yếu hơn.
Năm 2021, VND đã vượt qua nhiều yếu tố bất lợi như lo ngại về ảnh hưởng lâu dài của đại dịch COVID-19, động lực tăng trưởng chậm lại, thâm hụt cán cân thương mại và sự khác biệt trong chính sách tiền tệ với Fed. . Tuy nhiên, những vấn đề này có thể trở nên quan trọng hơn trong năm tới.
Cụ thể, thặng dư tài khoản vãng lai của Việt Nam thu hẹp xuống còn 0,4 tỷ USD trong quý đầu tiên, từ mức trung bình hơn 3 tỷ USD mỗi quý trong giai đoạn 2019-2020, và thâm hụt nhẹ có khả năng xảy ra trong quý I và quý II. Thâm hụt dịch vụ và nguồn thu chính là 8,2 tỷ USD, trong khi dòng tiền từ kiều hối đạt 2,6 tỷ USD.
Sự sụt giảm trong tài khoản vãng lai dự kiến sẽ tăng tốc trong tương lai do cán cân thương mại thâm hụt 1,3 tỷ USD mỗi tháng kể từ tháng 4. Trong khi đó, thâm hụt dịch vụ lớn hơn là hậu quả trực tiếp của việc mất thu nhập từ du lịch.
Trước khi bùng phát COVID-19, doanh thu du lịch ròng (5-6 tỷ USD) rất quan trọng để bù đắp thâm hụt giao thông vận tải (4-5 tỷ USD) và các khoản thâm hụt khác liên quan đến dịch vụ (3-4 tỷ USD).
Đối với dòng vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho đến nay vẫn là nguồn cung cấp dòng ngoại hối chính (5,9% GDP).
Tuy nhiên, dòng chảy đó đã chậm lại trong thời gian gần đây, với dữ liệu hàng tháng cho các khoản đầu tư đã thực hiện cho thấy sự sụt giảm từ mức trung bình 1,8 tỷ đô la trong tháng 4 đến tháng 12 năm 2020 xuống còn 1,6 tỷ đô la vào tháng 4 đến tháng 7 năm 2021.
Đối với dòng vốn đầu tư, với sự điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng, các nhà đầu tư nước ngoài ròng đã bán ra với giá 1,5 tỷ USD trong quý 1/2020 – quý 2 năm 2021, với rủi ro rút khỏi các dòng danh mục này sẽ tăng lên trong tương lai.
Trong bối cảnh của dịch, diễn biến còn rất phức tạp, Nền kinh tế đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phục hồi, ở đâu Nhấn mạnh vào thực tế là các công ty sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng các kịch bản hoạt động và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Theo đại diện HSBC, những khó khăn bao gồm:
Thứ nhất: Sự xa cách xã hội kéo dài cùng với các quy định nghiêm ngặt về phòng chống dịch đã khiến nhiều công ty phải tạm ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, trong khi chi phí duy trì sản xuất tăng cao. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến thu nhập và gián đoạn dòng tiền.
Thứ hai: Khó khăn trong việc giữ chân người lao động và lực lượng lao động trong và sau đợt dịch. Người lao động bị ảnh hưởng nặng nề trong đợt bùng phát và sẽ gặp nhiều khó khăn khi trở lại làm việc một khi dịch trong tầm kiểm soát.
Tương tự như vấn đề mà nhiều quốc gia khác phải đối mặt, các công ty sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút và duy trì nguồn lực cho người lao động. Nếu những vấn đề này không được giải quyết, năng lực sản xuất khó có thể trở lại giai đoạn trước dịch bệnh.
Thứ ba: Áp lực lạm phát gia tăng, đặc biệt là giá nguyên liệu đầu vào cũng đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp. Chi phí vận hành tăng, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, vô hình trung sẽ gây áp lực lớn lên giá cung ứng nguyên liệu, do đó cũng tạo ra nhiều thách thức đặc biệt cho các công ty thuộc lĩnh vực giá trị gia tăng cao, cạnh tranh mạnh và giá sản xuất khó tăng.
Đối mặt với những khó khăn trên, các công ty phải chủ động xây dựng các kịch bản khác nhau cho từng tình huống. Riêng đối với các công ty xuất nhập khẩu, cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề bảo hiểm rủi ro, bao gồm rủi ro ngân quỹ, lãi suất và rủi ro tiền tệ thông qua các sản phẩm phòng ngừa rủi ro. .