Janos Kornai hiểu chủ nghĩa tư bản bằng cách nghiên cứu điều ngược lại

Trong cabin trên tàu SS Bashan – một chiếc thuyền sông sang trọng chèo thuyền đến Vũ Hán, Janos Kornai mất ngủ vì phấn khích. Nhà kinh tế học người Hungary, vừa qua đời vào tháng trước, là một trong 7 chuyên gia nước ngoài được mời vào năm 1985 để chia sẻ quan điểm của họ về những cải cách kinh tế của Trung Quốc.

Như Julian Gewirtz kể lại trong cuốn sách “Đối tác không có khả năng xảy ra”, ông Kornai đã chiếm lĩnh chương trình. Trong một chuyến du lịch kéo dài một tuần với khán giả là các nhà chính trị Trung Quốc, ông đã mổ xẻ “những lo lắng và tai ương” quen thuộc của chủ nghĩa xã hội (các công ty xơ xác, tăng trưởng gấp rút và thiếu hụt người tiêu dùng). Và ông đưa ra một tầm nhìn đầy hy vọng về một chủ nghĩa tư bản bị kiềm chế, được hướng dẫn. Cuốn sách “Kinh tế thiếu hụt” của ông nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Trung Quốc, mặc dù ông chưa bao giờ nhận được bất kỳ khoản tiền bản quyền nào.

Bốn mươi năm trước đó, ông Kornai nằm trên mái nhà của một tu viện Dòng Tên ở Budapest, trốn tránh một cuộc đột kích của phát xít xuống bên dưới, ngay cả khi lực lượng Liên Xô thả bom từ trên cao. Ông viết: “Đường chân trời có một“ vẻ đẹp địa ngục ”. Là một người Hungary gốc Do Thái, người đã mất cha và một người anh em của mình vì cuộc tàn sát Holocaust, ông đã chào đón những người Liên Xô như những người giải phóng.

Lòng biết ơn là một trong những lý do khiến ông trở thành một người cộng sản nhiệt tình, hết lòng vì công việc trên tờ báo của Đảng. Đến lượt mình, chủ nghĩa cộng sản của ông giải thích tại sao ông trở thành một nhà kinh tế học. Ông đã nghiền ngẫm cuốn “Das Kapital” (Tư bản) của Karl Marx. Sau này, ông viết: Sự giác ngộ tỏa ra từ nó “như ánh nắng”. “Tôi không còn nghi ngờ gì nữa về việc chọn nghề gì.”

Thần chú của chủ nghĩa Mác đã tan vỡ khi ông gặp một nạn nhân của nó. Ông cũng ghét sự vội vàng ngẫu hứng của nghề báo. Thay vào đó, ông chuyển sang nghiên cứu tại Viện Kinh tế của Hungary. Nhưng thói quen phóng viên đã giúp ích cho ông rất nhiều trong luận văn của mình. Bằng cách phỏng vấn các nhà quản lý, vặn vẹo  họ về sự quan liêu, sự lãng phí và “không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng”, ông đã tạo ra một tài khoản có hệ thống hiếm hoi về cách thức hoạt động của nền kinh tế kế hoạch, trái ngược với cách nó được cho là hoạt động.

Cuốn sách cũng đóng vai trò như một mục lục về những luồng gió chính trị đang thay đổi. Nó được kỷ niệm trước cuộc cách mạng Hungary năm 1956, bị tố cáo sau khi cuộc cách mạng đó bị xe tăng Liên Xô nghiền nát, sau đó được chấp thuận cho bản dịch sang tiếng Anh, tất cả đều do cùng một người, giám đốc viện.

Một số nhà cải cách xã hội chủ nghĩa nghĩ rằng sở hữu nhà nước rộng rãi là tương thích với các lực lượng thị trường và tín hiệu giá cả. Nhưng ông Kornai nhận ra rằng giá cả phù hợp, ngay cả khi nó có thể, vẫn chưa đủ. Dưới chủ nghĩa tư bản, một công ty không thể bất chấp giá cả trong thời gian dài mà không bị phá sản. Dưới chủ nghĩa xã hội, mọi thứ đã khác. Các công ty quốc doanh biết rằng họ luôn có thể trông đợi sự bảo lãnh từ  các cơ quan cấp cao hơn.

Năm 1979, ông Kornai gọi đây là “hạn chế ngân sách mềm”: đường nét do các nhà kinh tế vẽ trên bảng đen của họ bị nhòe. Nếu các công ty không sợ lỗ, thì họ không cần quan tâm đến giá cả. Sự thiếu kiềm chế tài chính này cũng cho phép các công ty thỏa mãn “cơn đói đầu tư”, sự thèm ăn quá mức đối với các nguồn lực, điều này đã vắt kiệt người tiêu dùng và dẫn đến tình trạng thiếu hụt kinh niên.

Lập luận đã làm nên tên tuổi của ông: đó là một sự mở rộng “bẩm sinh” của một khái niệm quen thuộc với các nhà kinh tế học chính thống. Ông Kornai từng có tham vọng lớn hơn, hy vọng sẽ phá vỡ viên pha lê mà hầu hết các nhà kinh tế học nhìn nhận thế giới. Ông đã nghiên cứu các nhà lý thuyết tân cổ điển như Kenneth Arrow với cùng sự quan tâm mà ông đã dành cho Marx. Nhưng ông không thể thay đổi lý thuyết “cân bằng chung” thanh tao của họ bằng những quan sát của mình về nền kinh tế đang thở. Sự không phù hợp đã nhắc nhở một nhà kinh tế học về câu nói của nhà thơ Edith Sodergran: “Bạn tìm kiếm một người phụ nữ và tìm thấy một linh hồn – bạn thất vọng.”

Trên chuyến du ngoạn Trung Quốc, ông Kornai đã thuyết phục khán giả của mình về sự cần thiết phải thắt chặt các hạn chế về ngân sách của các công ty nước này. Một trong những hành khách của ông hiện là cơ quan quản lý ngân hàng của Trung Quốc. Nhưng việc áp đặt kỷ luật tài chính vẫn là một công việc đang được tiến hành. Sự gia tăng các vụ vỡ nợ, ngay cả đối với các doanh nghiệp nhà nước, trong những năm gần đây là bằng chứng cho thấy một số dòng tài chính khó khăn hơn. Nhưng nó chỉ đến sau nhiều năm đầu tư “háu ăn”.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã không bị thiếu hụt kinh niên. Ngược lại, đó là một nền kinh tế “siêu thặng dư”, được đánh dấu bởi tình trạng dư thừa công suất lớn, như Xu Chenggang, một trong những học trò của ông Kornai, đã chỉ ra. Một lý do là các doanh nghiệp nhà nước không có nền kinh tế cho chính mình. Chúng cùng tồn tại với các công ty tư nhân cạnh tranh gay gắt. Phần thặng dư cũng có thể phản ánh bản chất kép của đầu tư. Nó vừa là nguồn cầu tức thì vừa là nguồn cung cấp cuối cùng.

Trong ngắn hạn, nó đưa ra yêu cầu về nguồn lực của nền kinh tế, điều này có thể khiến người tiêu dùng bị áp đảo. Nhưng khi khoản đầu tư mang lại kết quả, nó làm tăng thêm khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế, dẫn đến sự dồi dào chứ không phải là sự khan hiếm.

Janos Kornai đích thực là một nhà khoa học chân chính thực thụ, bởi vì ông là một nhà kinh tế học hiếm hoi của Đông Âu đã dũng cảm nghiên cứu và đưa những nhận định phê phán đối với hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung ngay trong thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu còn đang tồn tại!


Chú thích của ViMoney:

Janos Kornai là ai? 

Sinh ngày 21/01/1928 tại thủ đô Budapest của đất nước Hungary, Janos Kornai nổi tiếng là một nhà kinh tế học có những phân tích, đánh giá, và nhận định sâu sắc mang tính phê phán, chỉ trích đối với mô hình kinh tế của hệ thống xã hội chủ nghĩa kiểu cũ ở Liên Xô, các nước Đông Âu, và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Hiếm có một nhà kinh tế học đương đại nào lại có số lượng sách xuất bản nhiều với khối lượng lớn và được dịch ra nhiều thứ tiếng như Kornai Janos.

Kinh tế thiếu hụt là gì?

Khi nghiên cứu mô hình kế hoạch hoá tập trung tại Hungary và các nước Đông Âu, ông đã tập trung phê phán mô hình này và nỗ lực thiết kế xây dựng một mô hình mới với những giả định và lý thuyết mới cho hệ thống kinh tế.

Ngay từ công trình nghiên cứu đầu tiên của mình “Tập trung hoá quá mức trong quản lý kinh tế”, Kornai đã đề cập đến vấn đề hiany (thiếu hụt) và đến cuốn “Chống cân bằng” (1971) và “Kinh tế học thiếu hụt” (1980), thì Kornai đã xây dựng hoàn chỉnh khái niệm thiếu hụt của nền kinh tế (hay còn được gọi là nền kinh tế thiếu hụt). Đây là một bước đột phá rất lớn và cũng được coi là phát hiện quan trọng nhất trong các nghiên cứu của Kornai.

Cùng với những nghiên cứu về sự ràng buộc của ngân sách, Kornai đã chỉ ra được sự thiếu hụt hay các cơn khát của nền kinh tế như cơn khát đầu tư hay cơn khát năng lượng,… của các xí nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Sự cố gắng ‘chống trả’, ‘vùng vẫy’ của các xí nghiệp hay cả nền kinh tế làm cho căn bệnh thiếu hụt lại càng thêm trầm kha và không thể cưỡng lại được. Đó là sai lầm của hệ thống hay sai lầm cố hữu mang tính hệ thống.

Sự thiếu hụt của nền kinh tế đã gây ra những tác hại to lớn cho sự tái sản xuất, gây ra lạm phát cao, đồng thời tạo ra những mối quan hệ bất bình thường trong phương thức sản xuất và tiêu dùng giữa Nhà nước – các xí nghiệp – người dân. Ngoài ra, Kornai cũng đã phê phán kinh tế học tân cổ điển, đặc biệt là lý thuyết cân bằng tổng quát trong cuốn sách “Chống Cân bằng” được xuất bản năm 1971.

5 cấp độ thiếu hụt đối với người mua

Theo Kornai, tồn tại 05 cấp độ thể hiện sự thiếu hụt ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của người tiêu dùng. Các cấp độ lần lượt được đưa ra với ví dụ “Người mua đến cửa hàng mua sản phẩm mình cần”.

Cấp độ 0: Sản phẩm đó sẵn có ở cửa hàng và giao dịch được thực hiện. Đây là trường hợp hiếm gặp trong nền kinh tế thiếu hụt

Cấp độ 01: Sản phẩm đó có ở cửa hàng nhưng không nhiều và có nhiều người mua cần tới nó, do vậy người mua phải xếp hàng.

Cấp độ 02: Sản phẩm đó không có ở cửa hàng vì thế người mua buộc phải chấp nhận sản phẩm có khả năng thay thế gần nhất với sản phẩm mình cần dự kiến. Ví dụ, anh ta mua đường trắng nhưng không có nên anh ta mua đường nâu thay thế.

Cấp độ 03: Sản phẩm đó không có ở mọi cửa hàng mà người mua tìm kiếm nhưng có khả năng xuất hiện trong tương lai nên người mua dự định trong tương lai sẽ quay lại để mua. Đây là trường hợp tiết kiệm bắt buộc vì tiền người mua được dành lại cho lần mua hàng sau.

Cấp độ 04: Sản phẩm đó không có trong hiện tại và trong tương lai nên người mua phải huỷ ý định mua ban đầu.

Cấp độ 05: Sản phẩm đó không tồn tại và người mua buộc phải lựa chọn một sản phẩm khác không liên quan gì đến sản phẩm định mua vì anh ta nghĩ sản phẩm này có thể có ích trong một việc gì đó.

Nguồn: The Economist, Tổng hợp

Exit mobile version