TAND cấp cao tại Hà Nội tại phiên phúc thẩm vụ “đại án” AIC đã không chấp nhận việc luật sư kháng cáo thay cho bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn và những người khác đang bị truy nã.
TAND cấp cao tại Hà Nội mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án vi phạm quy định đấu thầu và đưa, nhận hối lộ xảy ra tại Bệnh viện (BV) đa khoa tỉnh Đồng Nai và Công ty AIC vào sáng 22/5. Dư luận quan tâm đến vụ án bởi nhiều yếu tố trong đó có những tình huống pháp lý “xưa nay hiếm”.
Theo đó, 8/15 bị cáo có đơn kháng cáo đang bị truy nã, được luật sư bào chữa nộp đơn kháng cáo thay, gồm có bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn – cựu Chủ tịch Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (gọi tắt là Công ty AIC); Trần Mạnh Hà – cựu Phó tổng giám đốc Công ty AIC; Đỗ Văn Sơn, cựu Kế toán trưởng Công ty AIC và lãnh đạo một số công ty liên quan.
VKS nói về việc dành quyền kháng cáo cho luật sư của nhóm bị cáo đang bị truy nã
Việc tòa án sơ thẩm dành quyền kháng cáo cho các luật sư của nhóm bị cáo đang bị truy nã gây ra nhiều tranh cãi trước phiên tòa phúc thẩm. Không ít người cho rằng, khi đối chiếu với quy định tại bộ luật Tố tụng hình sự thì quyết định như vậy không hợp lý, nguyên nhân vì nhóm bà Nhàn không thuộc đối tượng được luật sư kháng cáo thay.
Vấn đề này được đưa ra “mổ xẻ” ở phần thủ tục của phiên phúc thẩm hôm nay. Theo đó, hội đồng xét xử (HĐXX) hỏi quan điểm của đại diện Viện KSND cấp cao tại Hà Nội về việc 8 bị cáo được luật sư kháng cáo thay.
Theo đại diện viện kiểm sát, tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét hành vi của các bị cáo và tuyên án đúng quy định. Tám bị cáo dù vắng mặt, song theo bản án sơ thẩm và quy định của luật pháp Việt Nam, xét nguyên tắc “có lợi nhất cho các bị cáo”, kiểm sát viên đề nghị tòa phúc thẩm dựa trên các căn cứ trên để phán quyết, chấp thuận hay không việc kháng cáo thay này.
Phía các luật sư khi được HĐXX hỏi có giấy ủy quyền từ các bị cáo để nộp đơn kháng cao thay không? Các luật sư cho biết không có giấy ủy quyền, chỉ dựa vào bản án sơ thẩm của TAND TP.Hà Nội, nêu rõ rằng luật sư được kháng cáo thay cho các bị cáo vắng mặt.
Riêng luật sư của bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết, cựu Giám đốc Công ty Thành An Hà Nội nói rằng, bị cáo Thuyết sau phiên sơ thẩm đã tự có đơn kháng cáo gửi từ Mỹ về Việt Nam, xin được xét xử vắng mặt do đang phải bảo hộ cho các con học tập tại đây. Luật sư cũng đã có đơn kháng cáo cho bị cáo Thuyết. Trường hợp của thân chủ mình không giống các trường hợp bỏ trốn và bị truy nã khác nên vị luật sư này đề nghị HĐXX cân nhắc, xem xét cho bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết.
Luật sư của bị cáo Ngô Thế Vinh, Giám đốc Công ty Nha khoa Việt Tiên cho hay, thân chủ mình cũng đã có đơn kháng cáo gửi từ Mỹ về Việt Nam. Phía luật sư cũng có đơn kháng cáo thay theo như ghi nhận tại bản án sơ thẩm.
Không chấp nhận bất cứ kháng cáo nào
HĐXX sau ít phút hội ý cho rằng, TAND TP.Hà Nội đã thực hiện việc niêm yết bản án (để thực hiện quyền kháng cáo của những người vắng mặt) theo đúng quy định của pháp luật sau khi có bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, tòa án cấp sơ thẩm không nhận được đơn kháng cáo của các bị cáo vắng mặt khi đã hết thời hạn kháng cáo.
Chủ tọa phân tích thêm, tại khoản 2 điều 331 bộ luật Tố tụng hình sự quy định, các bị cáo đều không thuộc trường hợp là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất để được luật sư kháng cáo thay. Do đó, việc kháng cáo phải do các bị cáo tự thực hiện, “người bào chữa cũng như thân nhân của các bị cáo không có quyền kháng cáo cho bị cáo”.
Ngoài ra, các bị cáo tự từ bỏ quyền của bị can, bị cáo, trong đó có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm theo quy định trong điều 61 bộ luật Tố tụng hình sự khi mà việc các bị cáo bỏ trốn, bị truy nã, đến nay chưa có kết quả.
HĐXX dựa trên căn cứ đã nêu, xác định bản án sơ thẩm đối với nhóm bị cáo bị truy nã thuộc trường hợp không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên không có căn cứ để chấp nhận việc những người bào chữa có đơn kháng cáo cho các bị cáo, các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Riêng đối với các bị cáo Nguyễn Đăng Thuyết và Ngô Thế Vinh dù có đơn gửi từ Mỹ về Việt Nam nhưng lại không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan đại diện ngoại giao. Chưa kể, các bị cáo chưa ra trình diện trước pháp luật nên không có tài liệu nào chứng minh họ đã nhập cảnh về Việt Nam, cũng không có căn cứ chứng minh nhân thân các bị cáo.
Do vậy, theo nhận định của HĐXX cấp phúc thẩm là không đủ căn cứ để chấp nhận xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm đối với 2 bị cáo trên.