Kinh tế Mỹ dần cảm nhận được tác động từ việc Fed tăng lãi suất

ViMoney: Kinh tế Mỹ dần cảm nhận được tác động từ việc Fed nâng lãi suất h1

Nền kinh tế Mỹ cuối cùng đã nhận được thông điệp rằng kỷ nguyên tiền giá rẻ sắp kết thúc. Ảnh hưởng của việc FED tăng lãi suất đang dần được cảm nhận ở nhiều nơi trong nền kinh tế, từ mua bất động sản cho đến cho vay mua ô tô.

ViMoney: Kinh tế Mỹ dần cảm nhận được tác động từ việc Fed nâng lãi suất h2Đối mặt với lạm phát cao nhất trong 40 năm, Fed đã bắt đầu tăng lãi suất và thị trường đã phản ứng mạnh mẽ.

Ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường

Trong suốt 15 năm qua, các hộ gia đình và doanh nghiệp Mỹ đã phải trả chi phí đi vay cực kỳ thấp. Người Mỹ có thể mua ô tô, nhà cửa và các thiết bị gia dụng bằng cách tận dụng lãi suất thấp. Các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có khả năng sinh lời tốt, có nhiều khả năng tiếp cận thị trường tín dụng hơn.

Đối mặt với lạm phát cao nhất trong 40 năm, Fed đã bắt đầu tăng lãi suất và thị trường đã phản ứng mạnh mẽ.

Dấu hiệu đầu tiên là lãi suất thế chấp. Vào đầu năm 2022, lãi suất trung bình của khoản thế chấp 30 năm dao động trên ngưỡng 3%. Giờ đây, theo Freddi Mac, con số đó là 4,72%, mức cao nhất kể từ tháng 12 năm 2018. Điều đó dẫn đến chi phí đi vay cao hơn nhiều đối với những người Mỹ muốn mua nhà – và đó mới chỉ là khởi đầu.

Vào tháng 12, các nhà đầu tư đặt cược rằng lạm phát ở Mỹ sẽ dần ổn định và Fed sẽ nâng lãi suất chủ chốt lên khoảng 0,75 điểm phần trăm trong năm nay với tổng cộng ba lần tăng lãi suất bằng 0. 25 điểm phần trăm. Bây giờ, mọi thứ đã trở nên tồi tệ hơn, với các nhà đầu tư dự đoán lãi suất sẽ leo lên mức cao nhất là 2,5% vào cuối năm nay và 3% trong năm tới – mức cao chưa từng thấy kể từ đó. khủng hoảng tài chính năm 2008.

Điều này đã khiến lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng vọt trong những tuần gần đây. Lợi tức trái phiếu chính phủ Mỹ phần lớn phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư đối với lãi suất ngắn hạn do Fed điều chỉnh. Khi Fed tăng lãi suất hoặc báo hiệu một động thái, lợi tức trái phiếu cũng tăng theo. Đó là những gì đang xảy ra vào lúc này.

Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng đang ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế do chi phí đi vay ngày càng cao, gây áp lực lên cả hộ gia đình và doanh nghiệp.

Lấy trường hợp của Home Depot, tháng trước đã bán rất nhiều trái phiếu đáo hạn trong 10 năm với lợi suất 3,25%, trị giá 1,25 tỷ USD. Trong khi chỉ sáu tháng trước đó, nhà bán lẻ này đã bán trái phiếu kỳ hạn 10 năm với lợi suất chỉ 1,875%.

Những nỗ lực tăng lãi suất trước đây của Fed kể từ cuộc khủng hoảng tài chính đều khiến thị trường kinh hoàng. Vào năm 2013, Chủ tịch Fed khi đó là Ben Bernake cho biết ông sẽ giảm quy mô chương trình mua trái phiếu để giữ lãi suất thấp và kích hoạt bán tháo trên thị trường trái phiếu. Trong năm 2018, Fed đã tăng lãi suất tổng cộng 4 lần, khiến thị trường chứng khoán Mỹ giảm 6% và Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất vào năm sau.

Greg McBride, giám đốc phân tích tài chính của Bankrate.com, cho biết: “Tăng trưởng kinh tế chậm lại là một rủi ro, nhưng đó là điều mà Fed phải chấp nhận. Lạm phát đang ở mức cao nhất trong 40 năm, và giờ là lúc ngân hàng trung ương phải cứng rắn hơn ”.

Người mua nhà khó khăn vì lãi suất cao

Hiện tại, không ai nhận thức rõ ràng về tác động của lãi suất cao đối với chi phí đi vay như những người mua nhà ở Hoa Kỳ.

Khi Jennifer Osorio bắt đầu lên kế hoạch mua nhà ở Houston vào đầu năm nay, cô nghĩ mình sẽ phải trả lãi suất thế chấp 3,5%. Tuy nhiên, vào tháng trước, khi cô sẵn sàng đưa ra lời đề nghị mua nhà, mức lãi suất thấp nhất mà cô nhận được là 4,99%.

Trước khi lãi suất tăng, cô đã cân nhắc mua nhà với giá lên đến 230.000 đô la, và bây giờ giá phù hợp là hơn 180.000 đô la.

Nhìn chung, bối cảnh hiện tại được tạo ra có mục đích. Fed tăng lãi suất để hạn chế hoạt động đi vay và do đó làm chậm nền kinh tế để kiểm soát lạm phát.

Công cụ chính của Fed để chống lạm phát là lãi suất. Ngân hàng trung ương tạo ra một sàn cho chi phí đi vay trong nền kinh tế bằng cách đặt mục tiêu cho lãi suất quỹ liên bang – mức mà các ngân hàng thanh toán cho nhau để vay qua đêm. Fed cũng nắm giữ trái phiếu và chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp; và tốc độ mua và bán chúng cũng có thể ảnh hưởng đến lãi suất trong toàn bộ nền kinh tế.

Khi Fed cố gắng hạ nhiệt một nền kinh tế quá nóng như hiện tại, Fed tăng lãi suất cho vay, giảm tỷ lệ sở hữu trái phiếu và báo hiệu rằng họ sẽ làm như vậy trong tương lai. Những động thái này có tác động đặc biệt rõ ràng đến tỷ lệ thế chấp.

Lãi suất thế chấp 30 năm được neo vào lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm, đang tăng lên khi thị trường dự đoán các đợt tăng lãi suất trong tương lai. Hơn nữa, quyết định giảm nắm giữ trái phiếu cầm cố của Fed sẽ buộc các công ty phát hành trái phiếu phải đưa ra mức lợi suất cao hơn để thu hút các nhà đầu tư.

Lãi suất tăng sẽ khiến các khoản thanh toán thế chấp hàng tháng, vốn đã ở mức cao nhất kể từ tháng 11 năm 2008, thậm chí còn khó khăn hơn. Theo Fed Atlanta, một hộ gia đình Mỹ trung bình cần 34,2% tổng thu nhập để trả tiền thế chấp cho một căn nhà có giá trung bình vào tháng Giêng. Con số đó cao hơn đáng kể. so với 29% một năm trước đó.

Lãi suất cao cũng ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua. George Ratiu, nhà kinh tế cấp cao và giám đốc điều hành nghiên cứu kinh tế tại Realtor.com, cho biết: “Tiền lương không theo kịp với việc lãi suất và chi phí thế chấp tăng gấp đôi.

Theo Ratiu, “điểm mấu chốt là tỷ lệ thế chấp sẽ vượt qua 5% – mức cao chưa từng thấy kể từ tháng 2 năm 2011, khi một ngôi nhà thông thường ở Mỹ có giá chỉ 166.000 USD – chưa bằng một nửa giá bình thường hiện tại.” Rõ ràng, tỷ lệ thế chấp tăng mạnh sẽ là một bước ngoặt lớn đối với thị trường bất động sản Mỹ, khiến nhiều người mua tiềm năng rời bỏ thị trường và làm giảm đáng kể nhu cầu.

Có những dấu hiệu cho thấy hiện tượng này đã bắt đầu xảy ra. Số liệu từ Hiệp hội Ngân hàng Thế chấp cho thấy các đơn xin thế chấp trong tuần cuối cùng của tháng Ba đã giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Với lãi suất vay thế chấp 30 năm dao động quanh mức 3,18%, số lượng đơn tái cấp vốn cũng giảm 62% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tác động của lãi suất cao phụ thuộc vào hình thức cho vay

Lãi suất đối với một số khoản nợ, chẳng hạn như số dư thẻ tín dụng và các khoản vay mà các công ty cổ phần tư nhân sử dụng để thực hiện các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A), vẫn chưa tăng nhiều. Fed chỉ tăng lãi suất đối với các khoản vay này trong năm nay từ 0,25% lên 0,5%.

Nhiều khoản vay thế chấp, chẳng hạn như cho vay mua ô tô và trái phiếu doanh nghiệp, sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn. Lãi suất bình quân cho khoản vay mua ô tô mới kỳ hạn 5 năm đạt 4,21% vào đầu tháng 4, cao hơn mức 3,86% hồi đầu năm.

Lợi suất trung bình của trái phiếu doanh nghiệp loại đầu tư – một thước đo chi phí đi vay mới cho các doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán mạnh, hiện ở mức 3,8% – tăng đáng kể so với mức 2,3% hồi đầu năm. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu doanh nghiệp có xếp hạng thấp hơn đã tăng từ 4,2% lên 6,3%. Mức lợi suất này đã khiến hoạt động vay của các công ty bị xếp hạng thấp hơn giảm mạnh.

Theo công ty nghiên cứu và thông tin Leveraged Com comment & Data, trong ba tháng đầu năm nay, các doanh nghiệp Mỹ đã phát hành 157 tỷ USD trái phiếu và các khoản vay ngoại tệ. Con số này giảm 53% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức thấp nhất theo quý kể từ cuối năm 2019.

Hiện tại, lãi suất đối với các khoản nợ doanh nghiệp được xếp hạng thấp vẫn ở mức khá thấp so với trước đây. Với mức lãi suất thấp mà các nhà đầu tư chấp nhận khi nắm giữ Kho bạc, họ dường như không lo ngại về việc doanh nghiệp gặp rủi ro về khả năng tiếp cận vốn.

Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi. Theo các chiến lược gia của Bank of America, nếu tốc độ phát hành trái phiếu không tăng lên vào giữa tháng 5, các nhà đầu tư sẽ bắt đầu cảm thấy lo ngại hơn về việc các doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt.

Trong khi những người và doanh nghiệp muốn vay một khoản vay mới cảm nhận rõ ràng nhất tác động của việc lãi suất tăng, những người đã vay trước đó cũng có thể trở nên dễ bị tổn thương nếu lãi suất của họ bị hạ thấp. thả nổi – tăng và giảm theo lãi suất hoặc lợi tức ngắn hạn của trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ.

Nợ thẻ tín dụng được “neo” vào lãi suất cơ bản. Tỷ lệ phần trăm hàng năm (APR) mà người đi vay thường trả trên số dư bao gồm lãi suất cơ bản cộng với khoản tiền ký quỹ mà người cho vay thu. APR của thẻ tín dụng ở Mỹ đạt trung bình 16,4% vào ngày 6 tháng 4, tăng nhẹ so với 16,3% vào ngày 5 tháng 1.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người dùng thẻ tín dụng sẽ không bị ảnh hưởng khi lãi suất cơ bản cao hơn. Brian Riley, giám đốc dịch vụ tư vấn tín dụng của công ty nghiên cứu thanh toán Mercator Advisory Group, cho biết lãi suất và giá tiêu dùng có khả năng tăng song song, ít nhất là trong ngắn hạn.

Theo Riley, người tiêu dùng có thể sử dụng nhiều thẻ tín dụng hơn để bù đắp tác động của lạm phát và lãi suất cơ bản cao hơn. Tuy nhiên, điều này có thể khiến người cho vay thắt chặt các điều kiện tín dụng. Ông nói: “Các ngân hàng sẽ phải thận trọng hơn nhiều. Họ sẽ không cho vay một cách mù quáng để rồi vướng vào sóng gió ”.

Song Thanh

Exit mobile version