Cổ phiếu VDN của Vinatex Đà Nẵng ( UPCoM:VDN ) kết ngày giao dịch 12/9 tại mức giá 25.300 đồng/cp. Như vậy, thị giá mã này tăng 125,9% từ 11.200 đồng/cp lên 25.300 đồng/cp sau 8 phiên giao dịch. Trong thời gian này, cổ phiếu VDN đã có 4 phiên tăng trần liên tiếp từ 30/8 đến 6/9.
Cũng như các trường hợp tăng đột biến khác, mã VDN có thanh khoản thấp với khối lượng giao dịch khớp lệnh trung bình 10 phiên là 460 đơn vị. 2 triệu cổ phiếu VDN giao dịch lần đầu trên sàn UPCoM vào ngày 15/7/2010.
Vinatex Đà Nẵng tiền thân là Chi nhánh Tổng Công Dệt May Việt Nam tại Đà Nẵng, được thành lập trên cơ sở sát nhập Chi nhánh liên hiệp Dệt với Chi nhánh Liên hiệp May tại Đà Nẵng theo quyết định ngày 26/10/1995 của HĐQT Tổng Công Dệt May Việt Nam. Đến năm 2004, đơn vị đi vào hoạt động dưới mô hình CTCP. Ngành nghề kinh doanh là sản xuất kinh doanh hàng may mặc, hàng thêu đan, hàng áo len xuất khẩu và tiêu thụ nội địa; kinh doanh nguyên phụ liệu thiết bị phục vụ ngành dệt may…
Sau lần phát hành cho cổ đông hiện hữu vào năm 2016, vốn điều lệ doanh nghiệp tăng lên gần 30 tỷ đồng và giữ từ đó đến nay. Trong cơ cấu cổ đông, Chủ tịch HĐQT Phạm Phú Cường là đại diện vốn Nhà nước và cũng là cổ đông lớn nhất với lượng nắm giữ 20,06% vốn điều lệ tương đương 600.609 cổ phần.
Về kết quả kinh doanh năm 2021, doanh thu thuần ở mức 449,2 tỷ đồng, giảm 13% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu doanh thu, 99,6% đến từ việc bán thành phẩm với 447,8 tỷ đồng, giảm 12,5%. Sau khi trừ giá vốn, lợi nhuận gộp là 60,3 tỷ đồng, giảm 16%.
Về hoạt động tài chính, doanh thu 4,2 tỷ đồng, giảm 3,7% song chi phí tài chính tăng 34,5% lên 12,4 tỷ đồng. Khoản lợi nhuận từ công ty liên kết, liên doanh cải thiện từ mức lỗ 9,3 tỷ đồng lên lãi 506,2 triệu đồng.
Tuy nhiên, các chi phí hoạt động vẫn ở mức cao với chi phí bán hàng 41,5 tỷ đồng (giảm 2,4%) và chi phí quản lý doanh nghiệp 15,9 tỷ đồng (tăng 18,7%). Kết quả, đơn vị lỗ sau thuế 5,5 tỷ đồng, cùng kỳ lỗ 519 triệu đồng.
Lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ đạt hơn 2 tỷ đồng, tăng 57%. Còn lợi nhuận sau thuế cổ đông không kiểm soát ghi nhận mức âm 7,5 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức âm 1,8 tỷ đồng cùng kỳ. Lãi cơ bản trên cổ phiếu 675 đồng, cùng kỳ 370 đồng.
Đơn vị: Tỷ đồng.
Tại thời điểm cuối năm ngoái, tổng tài sản là 389,1 tỷ đồng, tăng 2% so với đầu năm. 61,6% là tài sản ngắn hạn với 240 tỷ đồng. Các khoản phải thu ngắn hạn giảm 26,5% còn 99 tỷ đồng, chủ yếu do phải thu ngắn hạn với Supreme International LLC giảm từ 89,6 tỷ đồng xuống 42 tỷ đồng. Nguyên nhân là do hầu hết nợ phải thu này đang được thế chấp cho khoản vay ngắn hạn tại ngân hàng TMCP Đông Nam Á – chi nhánh Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, đơn vị phát sinh 20 tỷ đồng đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn, là các khoản tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng. Ngoài ra, lượng hàng tồn kho tăng 55% lên hơn 94 tỷ đồng chủ yếu do gia tăng giá trị nguyên vật liệu và thành phẩm. Tiền và các khoản tương đương tiền tăng 13% lên 14,8 tỷ đồng sau khi doanh nghiệp tăng lượng tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn.
Về nguồn vốn, đơn vị ghi nhận tổng nợ vay tài chính tăng gần 5% lên 210,3 tỷ đồng. Trong đó, nợ vay ngắn hạn tăng 8,6% lên 157 tỷ đồng, còn nợ vay dài hạn giảm 4,3% xuống 53,4 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối là 16 tỷ đồng, quỹ đầu tư phát triển 20,2 tỷ đồng và vốn cổ phần 30 tỷ đồng.