Kể từ sau tác động của đại dịch Covid-19, áp lực lạm phát nhìn chung đã gia tăng ở các quốc gia khác nhau và nền kinh tế toàn cầu phục hồi không đồng đều. Sản lượng kinh tế của một số quốc gia đã không trở lại mức trước đại dịch, và tỷ lệ lạm phát đã leo lên mức cao nhất trong lịch sử. Trong bối cảnh đó, liệu các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ và châu Âu có rơi vào khủng hoảng lạm phát đình trệ hay không đã làm dấy lên lo ngại trên diện rộng.
Áp lực lạm phát gia tăng hậu đại dịch
Năm 2021, áp lực lạm phát ở các nước trên thế giới nhìn chung sẽ tăng lên, nhưng tỷ lệ lạm phát ở hầu hết các nước có thể giảm dần trong 1-2 năm tới. IMF dự đoán tỷ lệ lạm phát trung bình của các nền kinh tế phát triển vào năm 2021 là 2,8%, tăng 1,1 điểm phần trăm so với năm 2019 và sẽ giảm xuống 2,3% vào năm 2022; tỷ lệ lạm phát của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vào năm 2021 là 5,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm 2019, giảm trở lại 4,9% vào năm 2022.
Nguyên nhân chính của đợt lạm phát này là do cầu đang phục hồi nhanh hơn cung. So với các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ lạm phát lớn hơn. Trước đây, lạm phát ban đầu thường thấp hơn với không gian chính sách và công cụ đầy đủ hơn, cho phép các nước này rút khỏi nới lỏng tiền tệ sau khi nền kinh tế ổn định. Chính sách tiền tệ hiện phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan là “không tăng lãi suất, dòng vốn chảy ra ngoài, và tăng lãi suất thì không thể hỗ trợ phục hồi kinh tế.”
Có hai lý do chính hỗ trợ giảm lạm phát trong tương lai. Thứ nhất, các nước rút dần khỏi các chính sách nới lỏng tiền tệ. Trước áp lực lạm phát, các nền kinh tế phát triển do Cục Dự trữ Liên bang đại diện đã nhiều lần phát tín hiệu tăng lãi suất. Nhiều nền kinh tế thị trường mới nổi đã bắt đầu tăng lãi suất, chẳng hạn như Hàn Quốc, Nga và Brazil. Thứ hai, sự ảnh hưởng của dịch bệnh đối với nguồn cung đã yếu đi.
Báo cáo của Cơ quan Tình báo Kinh tế EIU cho thấy tỷ lệ tiêm chủng hiện nay ở các nền kinh tế phát triển đã vượt quá 60%, và hầu hết các nước phát triển sẽ hoàn thành việc phổ biến vắc xin vào giữa năm sau. Với việc phổ biến vắc-xin, nguồn cung lao động được kỳ vọng sẽ phục hồi hơn nữa, thúc đẩy khôi phục sản lượng và giảm bớt chuỗi cung ứng thiếu hụt. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo thế giới vẫn cần cảnh giác với các rủi ro lạm phát liên quan đến thời tiết khắc nghiệt, tắc nghẽn chuỗi cung ứng và chuyển đổi năng lượng.
Lạm phát đình trệ có khả năng xảy ra trong tương lai hay không?
Trong số các nền kinh tế lớn, Mỹ và châu Âu có áp lực lạm phát lớn hơn, nhưng các khu vực này có khả năng phục hồi kinh tế mạnh mẽ và vẫn còn dư địa cho cuộc khủng hoảng “lạm phát đình trệ”. Vào tháng 9/2021, tốc độ tăng hàng năm của CPI ở Mỹ và khu vực châu Âu lần lượt là 5,4% và 3,4%. Mặc dù tỷ lệ lạm phát tăng nhanh nhưng với sự hỗ trợ của các chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, sự phục hồi kinh tế của các nước này cũng diễn ra tương đối mạnh mẽ.
IMF dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ sẽ đạt 6% và 5,2% vào năm 2021 và 2022, và của khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ là 5% và 4,3%.
So với cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong những năm 1970, nền tảng kinh tế của Mỹ và Châu Âu tốt hơn và tình trạng của các đồng tiền dự trữ quốc tế ổn định hơn, do đó chúng có khả năng chống lại lạm phát gia tăng. Khi nền kinh tế được cải thiện, Fed và Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm dần quy mô nới lỏng định lượng. Tuy nhiên, mặt bằng giá cả và sự phục hồi kinh tế của các nước này vẫn sẽ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố toàn cầu như tắc nghẽn chuỗi cung ứng và giá năng lượng tăng.
Trung Quốc khó có khả năng rơi vào khủng hoảng “lạm phát đình trệ”, nhưng tỷ lệ lạm phát có thể tăng trở lại dưới tác động của các yếu tố bên ngoài. Nhờ công tác phòng chống dịch hiệu quả, nền kinh tế Trung Quốc đã phục hồi nhanh chóng sau cú sốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến lần lượt là 8% và 5,6% vào các năm 2021 và 2022.
Cùng với các chính sách tài khóa và tiền tệ tương đối kiềm chế trong giai đoạn trước, tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc đã được hạn chế và đã giảm dần kể từ đầu năm nay, tốc độ tăng CPI tháng 9 chỉ ở mức 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, việc tăng giá dầu và các mặt hàng khác sẽ có tác động lớn hơn đến Trung Quốc, do việc tăng giá từ phía sản xuất sẽ truyền sang phía người tiêu dùng, nên không loại trừ khả năng lạm phát có thể vượt quá 2% vào năm sau.
Tóm lại, đối với Trung Quốc, Mỹ và Châu Âu, “lạm phát đình trệ” vẫn là một sự kiện có xác suất nhỏ, và các nước đang phát triển khác có tỷ lệ thâm nhập vắc-xin thấp và phụ thuộc vào nhập khẩu từ bên ngoài để cung cấp năng lượng và thực phẩm có nhiều khả năng rơi vào “lạm phát đình trệ .”
Trong giai đoạn tiếp theo, các quốc gia cần hết sức cảnh giác trước những rủi ro vĩ mô liên quan đến dịch bệnh lặp đi lặp lại, giá hàng hóa tăng cao và tắc nghẽn chuỗi cung ứng, tăng cường hợp tác vắc xin toàn cầu và phối hợp chính sách xuyên biên giới, đồng thời nỗ lực chung để giảm bớt xung đột thương mại và tắc nghẽn chuỗi cung ứng.