Liệu Fed có thể tiếp tục kế hoạch thắt chặt của mình nếu nền kinh tế đi xuống không? Giám đốc điều hành Goldman Sachs không hoàn toàn tin rằng Chủ tịch Fed Powell có đủ can đảm hoặc sẵn sàng làm như vậy.
Vào ngày 26/1, ngay trước cuộc họp FOMC của Fed, John Waldron, Giám đốc điều hành Goldman Sachs, đã đưa ra lời chỉ trích đối với ban lãnh đạo cấp cao của Fed và đặt câu hỏi về tính độc lập của Fed.
Theo Bloomberg, Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành Tập đoàn Goldman Sachs John Waldron đã chỉ trích tính độc lập về chính trị của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed trong những năm gần đây và sự tín nhiệm của cơ quan này trong việc kiềm chế lạm phát gia tăng. Ông đặt câu hỏi về khả năng của Fed trong việc hoạt động như “một bộ máy chính sách tiền tệ độc lập, làm những gì họ cho là đúng, chứ không chỉ là những người giải quyết vấn đề.”
Về việc liệu Fed có thể thực sự quyết tâm kiểm soát lạm phát hay không, Waldron cho biết tại cuộc họp Hội đồng Đầu tư New Jersey: “Họ có cơ hội để làm điều đó ở đây, nhưng tôi hơi lo lắng liệu họ có chịu đứng dậy và làm điều đó không.”
“Tính độc lập” của Fed?
Chủ ngân hàng cấp cao đề cập rằng trong nhiệm kỳ của cựu Tổng thống Donald Trump, ông Trump thường sử dụng ảnh hưởng cá nhân của mình để công khai kêu gọi Fed “chi tiền” trên các phương tiện truyền thông xã hội như Twitter, bao gồm cả việc ủng hộ chính sách lãi suất âm của Fed.
Mặc dù động thái của Trump đã bị Chủ tịch Fed Powell phản đối, nhưng trên thực tế, Fed đang “ngập đầu” trong nợ nần. Trong năm 2021, Mỹ tiếp tục chính sách “lãi suất 0” của năm 2020 về mặt chính sách tiền tệ và duy trì quy mô mua trái phiếu, duy trì mức chi tiêu tài chính cao trong suốt năm.
Do đó, bảng cân đối kế toán của Fed đã tăng gấp đôi trong hai năm qua lên gần 9 nghìn tỷ USD.
Trong bối cảnh đó, John Waldron cũng chỉ trích chính sách của Fed đã dẫn đến khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, và những người vốn đã có nhiều của cải tiếp tục thu lợi từ các chính sách nới lỏng của Fed. “Chính sách của ngân hàng trung ương đã làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng.”
Ngày nay, Fed cũng đang phải đối mặt với sự phản đối chính trị từ các nhà lập pháp, dưới áp lực của chính phủ về các vấn đề như khí hậu và công bằng chủng tộc.
Trong bối cảnh đó, ông Waldron không khỏi lo lắng, nếu nền kinh tế gặp một số vấn đề, liệu Fed có thể tiếp tục kế hoạch thắt chặt, đặc biệt là kế hoạch thu hẹp bảng cân đối kế toán. Waldron “không hoàn toàn tin tưởng” rằng Fed của Powell sẽ có đủ can đảm hoặc quyết tâm thực hiện điều đó. Do đó, ông đã tuyên bố: “Chúng ta có lẽ cần mang ông Paul Volcker trở lại, một người sẵn sàng theo đúng hành trình và không quan tâm về những gì đang diễn ra trên thị trường.”
Điều đáng nói là không lâu sau khi nhận xét của Waldron được đưa ra, ông Powell đã thể hiện một lập trường diều hâu chưa từng có tại một cuộc họp báo. “Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) có ý định nâng lãi suất quỹ của Fed tại cuộc họp tháng 3 nếu điều kiện cho phép”.
Tuy nhiên, liệu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, người từng được biết đến với chính sách “ôn hòa” trước đây, có thể thực sự kiên quyết quản lý lạm phát như cựu Chủ tịch Paul Volcker?
Lạm phát ở Mỹ đã gia tăng kể từ giữa những năm 1960. Đến tháng 3/1980, tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Hoa Kỳ đã đạt đỉnh 14,8%.
Vào thời điểm đó, các nhà phân tích thị trường nhìn chung cho rằng tỷ lệ lạm phát có khả năng tăng cao hơn nữa, dự báo một đợt lạm phát dữ dội vốn chỉ xảy ra ở các nền kinh tế kém phát triển và không ổn định trước đây.
Cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Paul Volcker, người đã có công giúp nước Mỹ dập tắt lạm phát trong những năm 1980
Vào thời điểm đó, ông Paul Volcker là Chủ tịch Fed. Ông đã phản ứng bằng cách đẩy lãi suất lên rất cao – mức cơ bản dành cho khách hàng tốt nhất của các ngân hàng là 20% vào năm 1980, và ông đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát vốn đã ở mức hai con số trong phần lớn giai đoạn 1979-1981, mặc dù khiến nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái sâu.
Những động thái đó đã đẩy tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên 10% vào thời điểm đó trong hai năm liên tiếp 1980 và 1981, tạo ra cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái (2009). Điều này đã dẫn đến các cuộc phản đối dữ dội của công chúng và những lời chỉ trích chính trị đối với Paul Volcker vào thời điểm đó. Tuy nhiên, Paul Volcker vẫn bất động trước nhiều áp lực từ chính phủ, ngành công nghiệp và các bên khác, ông luôn tuân thủ chính sách thắt lưng buộc bụng.
Cuối cùng, Paul Volcker đã dẫn dắt Mỹ đánh bại thành công lạm phát hai con số. Sự kết hợp chính sách của ông thành công ổn định nền kinh tế Mỹ, đưa nền kinh tế Mỹ thoát khỏi nguy cơ bùng nổ và ngược dòng ngoạn mục vào cuối năm 1982.
Vì vậy, nếu khủng hoảng xảy đến, ai sẽ là Volcker tiếp theo?