Rủi ro tài chính khi các dự án điện gió trên bờ “lỡ hẹn” tại FIT

Đại dịch Covid-19 đã “ngừng” các dự án điện gió

Hội đồng năng lượng gió thế giới (GWEC) trong một văn bản mới nhất cho biết các dự án điện gió trên đất liền ở Việt Nam không tránh khỏi bị đình trệ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và các biện pháp phòng, chống dịch được áp dụng rộng rãi.

Đầu tiên, Covid-19 hạn chế sự di chuyển và khả năng làm việc của người lao động địa phương.

Kể từ tháng 7 năm 2021, Chỉ thị 16 đã được triển khai tại 19 tỉnh phía Nam. Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam khác thậm chí còn áp dụng các biện pháp ngăn cách xã hội chặt chẽ hơn so với các biện pháp trong Chỉ thị 16.

Theo phân tích của GWEC, những hạn chế về sự xa cách xã hội và di chuyển này đã ảnh hưởng trực tiếp đến gần 2.800 MW của các dự án điện gió đang được triển khai khắp khu vực phía Nam.

Số lượng công suất điện gió thực tế bị ảnh hưởng bởi các biện pháp phòng chống dịch bệnh nghiêm ngặt còn lớn hơn nhiều, vì chính quyền các tỉnh khác như Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận và Quảng Bình cũng đã quyết định thực hiện chỉ thị 16.

Như vậy, hầu hết các địa phương đều có dự án năng lượng gió trên bờ quy mô lớn đang trong thời kỳ xã hội chênh lệch nghiêm ngặt và hạn chế đối với việc di chuyển trong nội tỉnh và / hoặc giữa các tỉnh.

Cho đến tháng 9/2021, các biện pháp quyết liệt để phòng, chống dịch vẫn đang được thực hiện, một số vùng thậm chí phải áp dụng quy luật ‘ai ở đâu’, gây ra nhiều hạn chế cho vấn đề di chuyển và lao động ‘ảnh minh họa.

Thứ hai, sự khởi phát của bệnh hạn chế việc đi lại và khả năng của các chuyên gia nước ngoài tham gia vào dự án.

Các dự án cho biết việc đưa chuyên gia nước ngoài đến địa điểm dự án gặp nhiều khó khăn do thủ tục kéo dài và thời gian cách ly, cũng như yêu cầu khắt khe của quy trình xin cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài.

Một số dự án cho biết thời gian đưa chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại công trường và đi lại giữa các công trường tăng hơn gấp đôi từ 8 tháng lên 18 tháng.

Ngoài việc thời gian đưa các chuyên gia nước ngoài đến địa điểm dự án tăng lên đáng kể, quy trình cấp thị thực đã không được điều chỉnh kịp thời để khắc phục khó khăn này.

Một số công ty phát triển điện gió cho biết sau khi chuyên gia nước ngoài hoàn thành việc cách ly theo thời gian quy định, thị thực của họ chỉ có thời hạn từ 1 đến 2 tháng nên không đủ thời gian để hoàn thành công việc được giao.

Trong thời gian gần đây, một số công ty năng lượng gió cũng cho rằng các chuyên gia, công nhân kỹ thuật nước ngoài đã từ chối sang làm việc tại dự án để tránh vướng mắc do hạn chế di chuyển và thủ tục hành chính, đồng thời để trốn tránh việc ký hợp đồng Covid-19 như Việt Nam đang gặp phải. dịch bệnh nghiêm trọng.

Nguy cơ rút vốn đầu tư khỏi Việt Nam khi hàng loạt dự án điện gió trên bờ
Covid-19 khiến giao thông, đi lại khó khăn, đẩy hàng loạt dự án điện gió chậm tiến độ.

Thứ ba, sản xuất và đơn đặt hàng bị gián đoạn cung cấp góp phần làm chậm tiến độ của các dự án gió.

Theo báo cáo từ nhiều công ty trong ngành, ngành công nghiệp điện gió đã gặp phải vấn đề gián đoạn chuỗi cung ứng đối với một số vật liệu xây dựng quan trọng như sắt, thép, nguyên liệu thô, cát, đá dăm và xi măng.

Các chuyến hàng tuabin gió – thiết bị thiết yếu và thường nhập khẩu – cũng bị trì hoãn trong nhiều tháng. Khi các nhà sản xuất nước ngoài cắt giảm công suất do dịch Covid-19 toàn cầu, các dự án điện gió cũng đang bị trì hoãn.

Sự chậm trễ trong việc nhập khẩu thiết bị do gián đoạn vận tải quốc tế, chậm trễ trong thủ tục hải quan, cũng như gián đoạn vận tải quốc gia, đã làm tăng sự chậm trễ trong việc triển khai các dự án điện gió.

Hậu quả lớn khi các dự án điện gió trên bờ bỏ lỡ thời hạn FIT

Theo GWEC, đến cuối tháng 8 năm 2021, ước tính sẽ có 4.000 MW dự án điện gió trên đất liền tại Việt Nam, tương đương trên 70% công suất lắp đặt của các dự án đã đăng ký vận hành thương mại rủi ro cao (COD) trước tháng 11. Năm 2021 để có thể định hướng cơ chế giá điện cố định (FIT).

Theo tính toán chuyên môn dựa trên trung bình quốc tế và Việt Nam, rủi ro tài chính của các dự án trên tương đương với 6,7 tỷ USD vốn tư nhân, và đó là một khoản đầu tư. Việc đầu tư là rất quan trọng đối với chính phủ và người dân địa phương.

Con số này bao gồm 6,51 tỷ đô la chi phí vốn và 151 triệu đô la chi phí vận hành trong vòng đời 25 năm của các dự án gió.

Không chỉ các khoản đầu tư bị ảnh hưởng mà thị trường lao động quốc gia cũng sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu các dự án điện gió trên đất liền không đi vào hoạt động.

GWEC tính toán rằng trong vòng đời dự án 25 năm, 4.000 MW điện gió trên bờ có thể tạo ra gần 21.000 việc làm, chủ yếu cho lao động trong nước, trải rộng trên toàn bộ chuỗi giá trị, bao gồm các dự án phát triển, giao thông, xây dựng, vận hành và bảo trì.

Như vậy, địa phương cũng sẽ bị thiệt hại đáng kể về nguồn thu tài khóa cho ngân sách cũng như cơ hội đầu tư vào lĩnh vực cung cấp điện sạch trong tương lai.

Một cách gián tiếp, nếu những khó khăn mà ngành gió gặp phải trong bối cảnh của Covid-19 không được giải quyết, GWEC cho rằng việc các nhà đầu tư và ban lãnh đạo dự án rút dần khỏi thị trường Việt Nam là điều khó tránh khỏi.

Đối mặt với rủi ro và không có định hướng rõ ràng trong tương lai gần, nếu không nhận được sự hỗ trợ cần thiết, các nhà phát triển dự án sẽ có xu hướng đánh giá lại tính khả thi của dự án và so sánh lợi ích kinh tế với rủi ro trước mắt.

Những yếu tố khó lường của đại dịch cũng như môi trường đầu tư không thuận lợi sẽ làm tăng rủi ro của ngành gió và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.

Exit mobile version