Toàn cầu hóa liệu có trở thành dĩ vãng?

ViMoney: Toàn cầu hóa liệu có trở thành dĩ vãng?

Toàn cầu hóa có phải là dĩ vãng?

Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga trong cuộc xung đột ở Ukraine là đòn giáng mới nhất vào nỗ lực toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, báo hiệu sự trở lại của khối cô lập thương mại toàn cầu như trong quá khứ.

ViMoney: Toàn cầu hóa liệu có trở thành dĩ vãng? h1

Theo CNBC, kể từ sau Thế chiến II, toàn bộ cơ cấu kinh tế của thế giới đã dần thay đổi. Mục đích của thế giới sau chiến tranh là gắn kết các nền kinh tế lại với nhau, để giảm khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới khác.

Theo cựu cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ HR McMaster, toàn cầu hóa có nghĩa là thế giới đã chấp nhận đánh đổi an ninh của một chuỗi cung ứng vì lợi ích của hoạt động của chuỗi cung ứng đó. Kết quả khá đa dạng. Chi phí hàng tiêu dùng đã giảm mạnh do hoạt động sản xuất được chuyển sang các nước có mức lương thấp.

Sự biến đổi của thế giới theo hướng này đã mang lại lợi ích to lớn cho các nhà đầu tư chứng khoán, khi nền kinh tế toàn cầu kết nối với nhau đã tạo điều kiện cho các thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, chỉ trong vài tuần ngắn ngủi, những câu hỏi mới đã được đặt ra là liệu mô hình này có bị phá vỡ hay không.

Đọc thêm: Đồng tiền Nga và Ukraine đang bị ảnh hưởng như thế nào?

Vết nứt từ cuộc xung đột ở Ukraine

WSJ cho biết, những nỗ lực do Mỹ dẫn đầu nhằm cô lập Nga khỏi thương mại quốc tế đã đánh dấu một sự rạn nứt lớn trong tầm nhìn thương mại tự do đã định hướng cho các chính sách của Mỹ trong những năm gần đây, WSJ cho biết. 30 năm qua và báo trước một tương lai, nơi các quốc gia và doanh nghiệp hạn chế dần giao dịch với các đối thủ, chuyển sang hợp tác nhiều hơn với các đối tác có quan điểm thân thiết.

Phương Tây đã thúc đẩy loại bỏ các ngân hàng Nga khỏi mạng lưới tài chính quốc tế, trong khi liên minh lưỡng đảng gồm các nhà lập pháp Mỹ kêu gọi xem xét lại tư cách thành viên của Nga trong Tổ chức Thương mại Thế giới. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) – một hành động chưa có tiền lệ trong lịch sử WTO.

Douglas Irwin, giáo sư kinh tế và sử gia về thương mại toàn cầu tại Đại học Dartmouth cho biết: “Vào năm 1995, chúng tôi có một thế giới quan duy nhất về mọi thứ. Không có hệ thống nào khác nhau… Chỉ có một bộ quy tắc của WTO, trong đó các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, mọi thứ đều được tích hợp ”.

Tuy nhiên, giờ đây, những nỗ lực của các nhà lập pháp Mỹ nhằm loại Nga khỏi WTO là một bước đi có thể làm xói mòn những giá trị đó, ngay cả khi kết quả của cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội nước này là vô hiệu. về mặt thẩm quyền chính thức.

Chưa bao giờ trong lịch sử của WTO, có một nỗ lực nghiêm túc nhằm loại bỏ bất kỳ thành viên nào trong số 164 thành viên. WTO thậm chí không có quy trình trục xuất chính thức và Mỹ được cho là sẽ phải đối mặt với một quá trình khó khăn trong việc thuyết phục các thành viên khác thực hiện bước chưa từng có này.

Jennifer Hillman, một luật sư thương mại và cựu luật gia thương mại của WTO, hiện đang giảng dạy luật quốc tế tại Đại học Georgetown nhận xét: “Hệ thống thương mại như chúng ta biết, với cốt lõi là WTO và một bộ quy tắc cơ bản mà các quốc gia tiến hành thương mại với nhau , hiện đã được tách ra. “

Ngay cả khi không có bất kỳ hành động chính thức nào của WTO, một số công ty phương Tây đã quyết định rút lui hoặc từ bỏ hoàn toàn hoạt động của họ tại Nga.

Áp lực làm xói mòn niềm tin vào toàn cầu hóa

Tuy nhiên, xung đột Ukraine không phải là bước ngoặt lớn mà chỉ là sự củng cố cho đà đi xuống của quá trình toàn cầu hóa. Thống kê cho thấy, năm 2008, xuất khẩu của thế giới đạt đỉnh, chiếm 31% GDP toàn cầu, nhưng đến năm 2020, tỷ trọng này chỉ còn 26%.

Trên thực tế, khái niệm toàn cầu hóa (các quốc gia giao dịch với ít rào cản, tập trung vào các ngành và dịch vụ mà họ làm tốt nhất) đã phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong những năm qua, do cạnh tranh kinh tế, đóng cửa nhà máy ở các nước giàu và đặc biệt là từ những người có quan điểm rằng biên giới thương mại mở không phù hợp với lợi ích quan trọng nhất của quốc gia, đặc biệt là trong thời điểm khẩn cấp.

Ví dụ, khi đại dịch Covid-19 xảy ra, chủ quyền quốc gia được ưu tiên hơn thương mại tự do ở hầu hết mọi nơi. Vấn đề nơi sản xuất khẩu trang và thiết bị y tế bỗng trở nên rất quan trọng.

Trong khi đó, ở Mỹ, một vấn đề mà Tổng thống Joe Biden không có quan điểm khác biệt với người tiền nhiệm là quan hệ thương mại với Trung Quốc. Giống như Donald Trump, Tổng thống Biden ủng hộ việc “tách rời” nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc, khiến Mỹ bớt phụ thuộc vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc.

Việc Mỹ và nhiều quốc gia khác tăng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đang tác động tiêu cực đến thương mại toàn cầu. Theo số liệu của WTO, kể từ năm 2010, lượng hàng hóa và dịch vụ phải chịu thuế quan và các rào cản thương mại khác đã tăng từ 126 tỷ USD lên 1,5 nghìn tỷ USD.

Bên cạnh đó, xung đột địa chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến toàn cầu hóa. Ví dụ, sáng kiến ​​”Sản xuất tại Trung Quốc 2025″ của Chủ tịch Tập Cận Bình không hướng đến việc tạo việc làm đơn thuần, mà là đảm bảo không gian kinh tế cho Trung Quốc hoạt động với quyền tự chủ trên toàn thế giới. chính trị.

Tương tự, khi Nga bị trừng phạt vào năm 2014 vì sáp nhập bán đảo Crimea, nước này đã đáp trả bằng nỗ lực thúc đẩy sản xuất trong nước, giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài.

Bill Reinsch, cố vấn cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Washington chuyên về an ninh quốc gia Hoa Kỳ, cho biết các công nghệ giao thông và liên lạc vẫn được cung cấp. làm cho thương mại toàn cầu trở nên hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và cho phép họ cung cấp các sản phẩm có tính cạnh tranh cao nhất. Tuy nhiên, những động thái như cô lập Nga về kinh tế vẫn đang “nhận được một số phản ứng ngắn hạn, và không ai quan tâm đến hậu quả lâu dài của việc suy yếu các thể chế quốc tế.”

Các khối thương mại biệt lập hơn

Giờ đây, thế giới được dự đoán sẽ quay trở lại một hệ thống các khối giao dịch cô lập hơn. Mặc dù Mỹ sẽ ngừng mua dầu từ Nga nhưng một số quốc gia khác vẫn có thể tiến hành giao dịch.

Tại Mỹ, mặc dù các nhà lập pháp vẫn đang cân nhắc nhưng sự ủng hộ từ cả đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đối với các biện pháp như 52 tỷ đô la để thúc đẩy sản xuất chất bán dẫn trở lại. về nước Mỹ rất hùng mạnh, điều mà chỉ một thập kỷ trước vẫn còn là điều không tưởng.

Những rạn nứt lớn được cho là khó có thể đảo ngược, ngay cả khi quan hệ chính trị giữa các nước trở nên bớt căng thẳng hơn. Internet cũng ngày càng trở nên phân mảnh – một hiện tượng được gọi là “mạng lưới liên kết”, khi Nga và Trung Quốc cố gắng cắt đứt nhiều liên kết Internet của họ với phương Tây để hạn chế luồng thông tin.

Chuyên gia Jennifer Hillman dự đoán, tương lai của các hiệp định thương mại toàn cầu sẽ thiên về các hiệp ước khu vực, nơi các bên chia sẻ lợi ích chung hơn, chẳng hạn như Hiệp định Mỹ – Canada – Mexico (USMCA) được ký kết năm 2020. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều hiệp ước được ký kết giữa các quốc gia cùng chí hướng. Sẽ rất khó để biết, liệu sẽ có các hiệp định chính thức trong đó các quốc gia thành viên chỉ buôn bán với nhau chứ không phải với các quốc gia khác hay không.

Với những gì đang diễn ra, kỷ nguyên thương mại tự do, không ràng buộc có vẻ giống như một mốt nhất thời hơn là một xu hướng, theo Derek Scissors, một thành viên cấp cao tại American Enterprise Institute. “Đã có thời điểm kể từ năm 1993 khi chúng tôi nghĩ rằng có thể có một hệ thống thương mại toàn cầu, một điều kỳ diệu. Đó là một khoảng thời gian đặc biệt và lạc quan. Tuy nhiên, sau khi nó được thử nghiệm, sự ưa thích dần biến mất ”, ông Derek kết luận.

Exit mobile version