Lạm phát kèm suy thoái – cơn ác mộng của nền kinh tế Mỹ
Lạm phát kèm suy thoái đang là một “cơn ác mộng” kinh tế, và có thể trở thành một vấn đề thực sự đau đầu đối với Tổng thống Mỹ Joe Biden và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ nếu tình trạng này xảy ra ở Mỹ ngay lúc này.
Veronika Dolar, một nhà kinh tế học tại Trường Cao đẳng Công lập SUNY Old Westbury và là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Stony Brook, đã đưa ra bình luận trên khi báo cáo mới nhất của Bộ Lao động Mỹ công bố ngày 10/3 cho thấy lạm phát ở nước này đạt mức cao nhất trong 40 năm vào tháng 2/2022, với giá tiêu dùng (CPI) tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.
Đọc thêm: Nhận định mới về giá dầu: Có thể lên 240USD/thùng? |
Lạm phát tiếp tục tăng trong bối cảnh lo ngại rằng sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ sau đại dịch COVID-19 có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các lệnh trừng phạt chống lại Nga liên quan đến tình hình ở Ukraine.
Kết quả của các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga là giá dầu tăng vọt trong tháng 3 – một diễn biến không chỉ khiến lạm phát tăng vọt mà còn có thể dẫn đến suy thoái kinh tế, do giá năng lượng làm tăng chi phí cho người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Nói cách khác, hoàn toàn có khả năng nền kinh tế Mỹ đang trải qua thời kỳ lạm phát đình trệ – vừa là lạm phát cao vừa suy thoái cùng một lúc. Đó là một “cơn ác mộng” mà không một người ra quyết định nào muốn trải qua.
Đọc thêm: Lạm phát Mỹ tăng nóng 7,9%, đạt mức cao nhất trong 4 thập kỷ
Lạm phát đình trệ xảy ra khi nào?
Các nhà kinh tế thường tập trung vào ba chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chính: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thất nghiệp và lạm phát.
Mỗi chỉ số có cách giải thích riêng về hoạt động của nền kinh tế. GDP – hoặc tổng sản lượng của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, cho biết nền kinh tế tổng thể đang hoạt động như thế nào. Tỷ lệ thất nghiệp cung cấp thông tin về trạng thái của thị trường lao động, trong khi lạm phát đo lường sự phát triển của giá cả.
Nhưng cách hiểu về các chỉ số này cũng trùng lặp. Và thật không may, họ thường không cung cấp tất cả các tin tốt cùng một lúc.
Trong trường hợp bình thường, các chỉ số này đòi hỏi sự đánh đổi và thỏa hiệp với nhau. Nền kinh tế sẽ khó có tốc độ tăng trưởng GDP cao và tỷ lệ thất nghiệp thấp nếu không chịu tác động của lạm phát leo thang. Và nếu chính phủ có thể giữ lạm phát ở mức thấp, nó thường dẫn đến tăng trưởng GDP thấp hơn và tỷ lệ thất nghiệp có thể cao hơn.
Vì vậy, một nền kinh tế bình thường có cả tin tốt và tin xấu. Nhưng với lạm phát và suy thoái, không có tin tốt. Lạm phát suy thoái xảy ra khi nền kinh tế trải qua cả tình trạng trì trệ kinh tế – sản lượng ổn định hoặc giảm sút và lạm phát cao. Ngoài ra, một nền kinh tế đang gặp khó khăn sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Nói cách khác, 3chỉ số kinh tế vĩ mô khi đó sẽ đi sai hướng.
Nguyên nhân của lạm phát và suy thoái vẫn đang được các nhà kinh tế tranh luận sôi nổi. Trước những năm 1970, họ thường không tin rằng lạm phát và thất nghiệp có thể cao trong một nền kinh tế trì trệ. Các nhà kinh tế tin rằng thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ tiêu cực với nhau.
Tuy nhiên, có một số lý thuyết khác nhau về việc lạm phát cao và nền kinh tế trì trệ có thể cùng tồn tại như thế nào.
Mọi người mua sắm tại một cửa hàng ở New York, Mỹ. (Ảnh: THX / TTXVN) |
Thông thường, tình huống trên xảy ra khi có cái gọi là “cú sốc nguồn cung cấp tiêu cực”. Theo định nghĩa, cú sốc này xảy ra khi một hàng hóa nhất định quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, chẳng hạn như năng lượng hoặc lao động, đột nhiên bị thiếu hụt hoặc trở nên đắt hơn. Một ví dụ rõ ràng là dầu thô.
Dầu là nguyên liệu đầu vào quan trọng trong sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ. Khi các sự kiện nhất định, chẳng hạn như căng thẳng Nga-Ukraine, bùng phát và làm giảm nguồn cung, giá dầu sẽ tăng. Các công ty chuyên sản xuất xăng dầu, săm lốp và nhiều sản phẩm khác sẽ phải đối phó với chi phí vận tải tăng cao, khiến việc bán hàng cho người tiêu dùng hoặc các công ty khác có lãi ít hoặc không có lợi nhuận mặc dù mức độ bán ra không phụ thuộc vào giá bán.
Kết quả là, một số lượng lớn các nhà sản xuất đang giảm sản lượng của họ, làm giảm nguồn cung chung. Sự suy giảm này đã khiến sản xuất quốc gia giảm xuống, trong khi tỷ lệ thất nghiệp và giá cả đều tăng.
Đọc thêm: Lạm phát là gì? Có thể bạn chưa biết những điều này về lạm phát
Thế “tiến thoái lưỡng nan” của các nhà hoạch định chính sách
Lần cuối cùng lạm phát và suy thoái này xảy ra ở Mỹ là vào những năm 1970, thời điểm cũng chứng kiến giá năng lượng tăng cao. Do lệnh cấm vận của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đối với các nước thân Israel, giá dầu thô đã tăng gấp đôi từ năm 1973 đến 1975.
Các nước nhập khẩu dầu mỏ như Hoa Kỳ đã trải qua thời kỳ lạm phát cao và đồng thời suy thoái kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ trong thời kỳ này lần đầu tiên vượt ngưỡng 10% kể từ những năm 1940, tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 4,6% năm 1973 xuống 9% năm 1975 và GDP “sụp đổ”.
Các sự kiện tương tự – OPEC đã đẩy giá dầu lên, kéo theo siêu lạm phát và các nền kinh tế suy thoái, lặp lại vài năm sau đó. Trong thời kỳ này, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và hoạt động kinh doanh giảm đi, đồng nghĩa với việc người dân có ít tiền hơn. Tuy nhiên, lạm phát tăng, khiến mỗi đô la Mỹ có giá trị qua đêm thấp hơn một chút.
Trải nghiệm này, cùng với lạm phát và suy thoái, về cơ bản đã thay đổi cách sống của người Mỹ, mở ra kỷ nguyên tiết kiệm nhiên liệu và phụ cấp chưa từng thấy kể từ Thế chiến II.
Đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ, còn điều gì tồi tệ hơn bóng ma lạm phát và đình trệ. Bởi vì nếu họ muốn giải quyết một trong hai vấn đề – lạm phát cao, tăng trưởng thấp, thì điều đó thường khiến vấn đề còn lại trở nên tồi tệ hơn.
Ví dụ, Fed có thể tăng lãi suất (như hầu hết các thị trường mong đợi tại cuộc họp kéo dài hai ngày vào ngày 15-16 tháng 3) và động thái đó có thể giúp giảm lạm phát. Nhưng nó cũng gây hại cho hoạt động kinh tế và tăng trưởng nói chung, vì nó làm gián đoạn hoạt động cho vay và đầu tư. Hoặc các nhà hoạch định chính sách có thể cố gắng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa – thông qua kích thích của chính phủ hoặc bằng cách giữ lãi suất ở mức thấp, nhưng điều đó có thể sẽ làm tăng lạm phát.
Nói cách khác, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ sẽ phải đối mặt với tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Ở giai đoạn này, việc giải quyết vấn đề chỉ có thể phụ thuộc vào các biện pháp nằm ngoài tầm kiểm soát của những người ra quyết định. Các chính sách của Mỹ, như chấm dứt cuộc khủng hoảng ở Ukraine hay tìm cách tăng ngay nguồn cung dầu – đều là những biện pháp rất khó thành công.
Lạm phát kèm suy thoái – cơn ác mộng của nền kinh tế Mỹ
Lạm phát kèm suy thoái đang là một “cơn ác mộng” kinh tế, và có thể trở thành một vấn đề thực sự đau đầu đối với Tổng thống Mỹ Joe Biden và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ nếu tình trạng này xảy ra ở Mỹ ngay lúc này.
Veronika Dolar, một nhà kinh tế học tại Trường Cao đẳng Công lập SUNY Old Westbury và là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Stony Brook, đã đưa ra bình luận trên khi báo cáo mới nhất của Bộ Lao động Mỹ công bố ngày 10/3 cho thấy lạm phát ở nước này đạt mức cao nhất trong 40 năm vào tháng 2/2022, với giá tiêu dùng (CPI) tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.
Đọc thêm: Nhận định mới về giá dầu: Có thể lên 240USD/thùng? |
Lạm phát tiếp tục tăng trong bối cảnh lo ngại rằng sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ sau đại dịch COVID-19 có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các lệnh trừng phạt chống lại Nga liên quan đến tình hình ở Ukraine.
Kết quả của các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga là giá dầu tăng vọt trong tháng 3 – một diễn biến không chỉ khiến lạm phát tăng vọt mà còn có thể dẫn đến suy thoái kinh tế, do giá năng lượng làm tăng chi phí cho người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Nói cách khác, hoàn toàn có khả năng nền kinh tế Mỹ đang trải qua thời kỳ lạm phát đình trệ – vừa là lạm phát cao vừa suy thoái cùng một lúc. Đó là một “cơn ác mộng” mà không một người ra quyết định nào muốn trải qua.
Đọc thêm: Lạm phát Mỹ tăng nóng 7,9%, đạt mức cao nhất trong 4 thập kỷ
Lạm phát đình trệ xảy ra khi nào?
Các nhà kinh tế thường tập trung vào ba chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chính: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thất nghiệp và lạm phát.
Mỗi chỉ số có cách giải thích riêng về hoạt động của nền kinh tế. GDP – hoặc tổng sản lượng của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, cho biết nền kinh tế tổng thể đang hoạt động như thế nào. Tỷ lệ thất nghiệp cung cấp thông tin về trạng thái của thị trường lao động, trong khi lạm phát đo lường sự phát triển của giá cả.
Nhưng cách hiểu về các chỉ số này cũng trùng lặp. Và thật không may, họ thường không cung cấp tất cả các tin tốt cùng một lúc.
Trong trường hợp bình thường, các chỉ số này đòi hỏi sự đánh đổi và thỏa hiệp với nhau. Nền kinh tế sẽ khó có tốc độ tăng trưởng GDP cao và tỷ lệ thất nghiệp thấp nếu không chịu tác động của lạm phát leo thang. Và nếu chính phủ có thể giữ lạm phát ở mức thấp, nó thường dẫn đến tăng trưởng GDP thấp hơn và tỷ lệ thất nghiệp có thể cao hơn.
Vì vậy, một nền kinh tế bình thường có cả tin tốt và tin xấu. Nhưng với lạm phát và suy thoái, không có tin tốt. Lạm phát suy thoái xảy ra khi nền kinh tế trải qua cả tình trạng trì trệ kinh tế – sản lượng ổn định hoặc giảm sút và lạm phát cao. Ngoài ra, một nền kinh tế đang gặp khó khăn sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Nói cách khác, 3chỉ số kinh tế vĩ mô khi đó sẽ đi sai hướng.
Nguyên nhân của lạm phát và suy thoái vẫn đang được các nhà kinh tế tranh luận sôi nổi. Trước những năm 1970, họ thường không tin rằng lạm phát và thất nghiệp có thể cao trong một nền kinh tế trì trệ. Các nhà kinh tế tin rằng thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ tiêu cực với nhau.
Tuy nhiên, có một số lý thuyết khác nhau về việc lạm phát cao và nền kinh tế trì trệ có thể cùng tồn tại như thế nào.
Mọi người mua sắm tại một cửa hàng ở New York, Mỹ. (Ảnh: THX / TTXVN) |
Thông thường, tình huống trên xảy ra khi có cái gọi là “cú sốc nguồn cung cấp tiêu cực”. Theo định nghĩa, cú sốc này xảy ra khi một hàng hóa nhất định quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, chẳng hạn như năng lượng hoặc lao động, đột nhiên bị thiếu hụt hoặc trở nên đắt hơn. Một ví dụ rõ ràng là dầu thô.
Dầu là nguyên liệu đầu vào quan trọng trong sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ. Khi các sự kiện nhất định, chẳng hạn như căng thẳng Nga-Ukraine, bùng phát và làm giảm nguồn cung, giá dầu sẽ tăng. Các công ty chuyên sản xuất xăng dầu, săm lốp và nhiều sản phẩm khác sẽ phải đối phó với chi phí vận tải tăng cao, khiến việc bán hàng cho người tiêu dùng hoặc các công ty khác có lãi ít hoặc không có lợi nhuận mặc dù mức độ bán ra không phụ thuộc vào giá bán.
Kết quả là, một số lượng lớn các nhà sản xuất đang giảm sản lượng của họ, làm giảm nguồn cung chung. Sự suy giảm này đã khiến sản xuất quốc gia giảm xuống, trong khi tỷ lệ thất nghiệp và giá cả đều tăng.
Đọc thêm: Lạm phát là gì? Có thể bạn chưa biết những điều này về lạm phát
Thế “tiến thoái lưỡng nan” của các nhà hoạch định chính sách
Lần cuối cùng lạm phát và suy thoái này xảy ra ở Mỹ là vào những năm 1970, thời điểm cũng chứng kiến giá năng lượng tăng cao. Do lệnh cấm vận của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đối với các nước thân Israel, giá dầu thô đã tăng gấp đôi từ năm 1973 đến 1975.
Các nước nhập khẩu dầu mỏ như Hoa Kỳ đã trải qua thời kỳ lạm phát cao và đồng thời suy thoái kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ trong thời kỳ này lần đầu tiên vượt ngưỡng 10% kể từ những năm 1940, tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 4,6% năm 1973 xuống 9% năm 1975 và GDP “sụp đổ”.
Các sự kiện tương tự – OPEC đã đẩy giá dầu lên, kéo theo siêu lạm phát và các nền kinh tế suy thoái, lặp lại vài năm sau đó. Trong thời kỳ này, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và hoạt động kinh doanh giảm đi, đồng nghĩa với việc người dân có ít tiền hơn. Tuy nhiên, lạm phát tăng, khiến mỗi đô la Mỹ có giá trị qua đêm thấp hơn một chút.
Trải nghiệm này, cùng với lạm phát và suy thoái, về cơ bản đã thay đổi cách sống của người Mỹ, mở ra kỷ nguyên tiết kiệm nhiên liệu và phụ cấp chưa từng thấy kể từ Thế chiến II.
Đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ, còn điều gì tồi tệ hơn bóng ma lạm phát và đình trệ. Bởi vì nếu họ muốn giải quyết một trong hai vấn đề – lạm phát cao, tăng trưởng thấp, thì điều đó thường khiến vấn đề còn lại trở nên tồi tệ hơn.
Ví dụ, Fed có thể tăng lãi suất (như hầu hết các thị trường mong đợi tại cuộc họp kéo dài hai ngày vào ngày 15-16 tháng 3) và động thái đó có thể giúp giảm lạm phát. Nhưng nó cũng gây hại cho hoạt động kinh tế và tăng trưởng nói chung, vì nó làm gián đoạn hoạt động cho vay và đầu tư. Hoặc các nhà hoạch định chính sách có thể cố gắng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa – thông qua kích thích của chính phủ hoặc bằng cách giữ lãi suất ở mức thấp, nhưng điều đó có thể sẽ làm tăng lạm phát.
Nói cách khác, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ sẽ phải đối mặt với tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Ở giai đoạn này, việc giải quyết vấn đề chỉ có thể phụ thuộc vào các biện pháp nằm ngoài tầm kiểm soát của những người ra quyết định. Các chính sách của Mỹ, như chấm dứt cuộc khủng hoảng ở Ukraine hay tìm cách tăng ngay nguồn cung dầu – đều là những biện pháp rất khó thành công.