Hệ quả kinh tế của việc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát

ViMoney: Hệ quả kinh tế từ việc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát h1

Đồng loạt tăng lãi suất

Các ngân hàng trung ương của Mỹ, khu vực đồng euro và Anh đều đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát đang tăng cao nhất gần thập kỷ. Sự thay đổi trong chính sách tiền tệ ngay lập tức có tác động lớn đến các doanh nghiệp và người tiêu dùng, cũng như các nền kinh tế yếu hơn.

Ngày 15/6, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm – mức tăng lớn nhất kể từ năm 1994, trong khi ngày 16/6, Ủy ban Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Anh (BoE) đã nhất trí tăng lãi suất 0,25%, lên 1,25% trong bối cảnh dự báo lạm phát tại nước này có thể lên đến 11% trong năm nay. Đây là mức lãi suất chủ chốt cao nhất của Anh kể từ tháng 1/2009 và là lần tăng lãi suất lần thứ 5 liên tiếp của BoE kể từ tháng 12/2021 nhằm khống chế tỷ lệ lạm phát trong bối cảnh giá năng lượng tăng vọt do đại dịch COVID và chiến sự tại Ukraine gây ra tình trạng gián đoạn nguồn cung trên phạm vi toàn cầu.

ViMoney: Hệ quả kinh tế từ việc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát - Biểu đồ lịch sử lãi suất của Mỹ từ 1982

Biểu đồ lãi suất tại Mỹ. Màu đỏ biểu thị các đợt tăng lãi từ 0,75% trở lên. Nguồn: CNN, Refinitiv

Hệ quả kinh tế

Trước hết, lãi suất cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí đi vay của ngân hàng và người chịu chi phí đó là doanh nghiệp, người tiêu dùng và thậm chí là Chính phủ. Trong khi những người gửi tiết kiệm được hưởng lợi từ việc lãi suất tăng, tỷ lệ tiết kiệm phần lớn vẫn ở dưới mức lạm phát.

Chi phí đi vay cao sẽ làm chậm hoạt động vay nợ, dẫn đến hoạt động kinh tế bị đình trệ. Điều này cuối cùng sẽ làm chậm sự gia tăng của lạm phát, điều mà các ngân hàng trung ương mong muốn đạt được.

Lãi suất cao ảnh hưởng đến giá trị đồng nội tệ. Cụ thể, sau khi Fed tăng lãi suất, đô la Mỹ đánh giá cao so với đồng Euro. Giá trị của đồng bạc xanh sẽ hỗ trợ nhập khẩu, giúp người tiêu dùng Mỹ hưởng lợi về giá, nhưng lại ảnh hưởng tiêu cực đến hàng hóa Mỹ bán ra nước ngoài vì giá tăng. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động.

Ở chiều ngược lại, đồng nội tệ của Vương quốc Anh và khu vực đồng euro yếu hơn đô la Mỹ. Các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải chịu chi phí cao hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập khẩu dầu, vì các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng đô la Mỹ. Tuy nhiên, xuất khẩu của các nước này được hỗ trợ và sẽ hỗ trợ thị trường việc làm ở các nước này.

Việc Mỹ tăng lãi suất cũng sẽ ảnh hưởng đến lãi suất đi vay đối với các nền kinh tế mới nổi – những quốc gia đang vay nợ nước ngoài, vì những người cho vay sẽ yêu cầu lợi tức cao hơn mức họ có thể nhận được. từ các hoạt động đầu tư an toàn hơn ở Mỹ, do đó cũng thu hẹp quỹ cho vay. Điều này có thể nhanh chóng làm cạn kiệt ngân sách của các thị trường mới nổi, vốn cũng đang phải đối mặt với áp lực từ việc tăng giá năng lượng và chi phí nhập khẩu lương thực do đại dịch COVID-19 và xung đột giữa Nga và Nga. Ukraina.

Ông Eric Dor, trưởng bộ môn kinh tế của Trường Quản lý IESEG, Pháp, cho rằng biện pháp tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát không được hoan nghênh ở các nước đang gặp nhiều khó khăn như Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Argentina hay Sri Lankam, vì biện pháp này sẽ làm tăng giá tất cả hàng hóa và khiến dòng vốn đầu tư đổ vào Mỹ. Điều này càng gây khó khăn hơn cho các quốc gia đang vay nợ nước ngoài, thậm chí không loại trừ khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế và gián đoạn thị trường ở các quốc gia này.

Exit mobile version