Khối doanh nghiệp Nhà nước có khoản nợ phải thu khó đòi là 22.619 tỷ đồng, tăng 45% so với năm trước.
Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2020, tính đến cuối năm 2020, cả nước có 807 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước với tổng tài sản là gần 3,7 triệu tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2019. Vốn chủ sở hữu là hơn 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 1%.
Tuy nhiên, tổng doanh thu đạt hơn 1,98 triệu tỷ đồng, giảm 12% so với năm 2019. Trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – con là 1,75 triệu tỷ đồng, giảm 13% so với năm 2019, chiếm 88% tổng doanh thu của các doanh nghiệp.
Về lãi phát sinh trước thuế đạt 162.904 tỷ đồng, giảm 22%. Trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ giảm 25%, còn 140.522 tỷ đồng.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2020 là 9%. Trong khi vào năm 2012, con số này là 12%. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2020 là 4% trong khi vào năm 2019, con số này là 6%).
Có một chi tiết đáng chú ý là 119/807 doanh nghiệp có lỗ phát sinh với tổng số lỗ là 15.740 tỷ đồng.
Nợ phải thu khó đòi tăng 45% ở khối doanh nghiệp Nhà nước
Theo báo cáo về tình hình tài chính, báo cáo hợp nhất của các tập đoàn, tổng công ty là 343.761 tỷ đồng, giảm 5% so với năm 2019. Trong đó, nợ phải thu khó đòi là 22.619 tỷ đồng, tăng 45% so với năm trước, chiếm 6% tổng số nợ phải thu.
Cụ thể, nợ phải thu khó đòi theo báo cáo hợp nhất tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là 11.428 tỷ đồng; Tập đoàn Công nghệ Viễn thông Quân đội là 1.744 tỷ đồng.
Ngoài ra, số nợ khó đòi này tại Tổng công ty Viễn thông MobiFone là 695 tỷ đồng; Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam là 604 tỷ đồng; Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là 603 tỷ đồng; Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là 498 tỷ đồng; Tổng công ty Cà phê Việt Nam là 428 tỷ đồng; Tập đoàn Điện lực Việt Nam là 367 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt Nam là 331 tỷ đồng; Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam là 244 tỷ đồng…
Trong khi đó, báo cáo của công ty mẹ là 322.814 tỷ đồng, giảm 14% so với năm 2019. Trong đó, nợ phải thu khó đòi là 21.911 tỷ đồng, tăng 26% so với năm trước, chiếm 7% tổng số nợ phải thu.
Cụ thể, nợ phải thu khó đòi theo báo cáo của công ty mẹ ở Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là 11.005 tỷ đồng. Ngoài ra, số nợ này ở Tập đoàn Dầu khí là 6.410 tỷ đồng, gồm ủy thác cho vay qua ngân hàng TMCP Đại Dương 819 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcomBank) 707 tỷ đồng; Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn 4.218 tỷ đồng; PVText 295 tỷ đồng. PVN đã trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi 4.357 tỷ đồng.
Tại Viettel, khoản nợ phải thu của công ty mẹ là 877 tỷ đồng. Còn ở MobiFone, con số là 693 tỷ đồng, chủ yếu đến từ nợ cước viễn thông của khách hàng.
Tổng công ty xây dựng Lũng Lô 1.365 tỷ đồng (66%); Tổng công ty Thái Sơn 2.250 tỷ đồng (63%), Vinachem 9.989 tỷ đồng (57%), Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn 2.512 tỷ đồng (56%)… đều là những công ty mẹ có tỷ lệ nợ phải thu trên tổng tài sản ở mức cao, trên 50%.
Một số Công ty mẹ có tổng doanh thu giảm trên 20% so với năm 2019 có thể kể đến như: Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam giảm 56%; Tổng công ty Cà phê Việt Nam giảm 53%; Tổng công ty Du lịch Hà Nội giảm 46%; Tổng công ty Du lịch Sài Gòn giảm 45%; Tổng công ty Đường sắt Việt Nam giảm 33%; Công ty TNHH MTV 622 – BQP giảm 28%;
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam giảm 25%; Tổng công ty 789 giảm 22%; Tổng công ty CN Xi măng Việt Nam giảm 21%; Tổng công ty Sông Thu giảm 21%; Tổng công ty Công nghiệp thực phẩm Đồng Nai giảm 21%; Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam giảm 21%; Tổng công ty Xăng dầu quân đội giảm 20%; Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) giảm 20%.
Theo đánh giá của Chính phủ, năm 2020, phần lớn các Tập đoàn, Tổng công ty chịu ảnh hưởng từ đại dịch Covid – 19 nên tổng doanh thu đều giảm hoặc chỉ tương đương so với thực hiện năm 2019.
Cát Anh (T/h)