Thị trường dịch vụ chăm sóc sức khỏe tư nhân đang ngày càng phát triển dù hiện các bệnh viện tư mới chỉ đóng góp phần nhỏ vào tổng cơ sở hạ tầng y tế ở Việt Nam. Ở các nước láng giềng, khu vực tư nhân chiếm 20% – 40% số giường bệnh, trong khi ở Việt Nam con số này chỉ là dưới 13%. Mặc dù giá dịch vụ đắt gấp 2-3 lần các bệnh viên công, nhưng các viện tư như Vimec, FV, Hoàn Mỹ, Tâm Anh, Medlatec… đang ngày càng hút khách. Phân tích về vấn đề này, SSI Research đưa ra các nguyên nhân chính
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng cao
Theo thống kê của Bộ Y tế, tổng chi tiêu cho y tế bình quân đầu người của Việt Nam trong 10 năm qua đã tăng lên đáng kể, với tỷ lệ bình quân khoảng 11%/năm. Công ty chứng khoán SSI đánh giá điều này được thúc đẩy bởi 3 yếu tố chính:
Dân số già nhanh và ô nhiễm môi trường gia tăng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO) và Liên hợp quốc (LHQ), dân số cao tuổi (trên 60 tuổi) của Việt Nam năm 2014 đạt trên 10% tổng dân số. Theo một báo cáo của LHQ, cơ cấu dân số già của Việt Nam kể từ đó tiếp tục tăng nhanh hơn, đạt 12% tổng dân số (12 triệu người) năm 2021, dự báo sẽ đạt 21% (22 triệu người) vào 2029, gấp đôi mức hiện tại.
Ô nhiễm môi trường cũng đang trở thành vấn đề ngày càng nhức nhối ở Việt Nam khi chỉ số chất lượng không khí dao động ở mức có hại tại nhiều thành phố lớn, dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh liên quan như bệnh đường hô hấp, ung thư và hệ miễn dịch suy yếu, đã lọt vào top 10 nguyên nhân gây bệnh trong những năm gần đây theo Niên giám thống kê y tế 2019.
Với tình trạng này, nhu cầu nhân viên y tế và dịch vụ y tế sẽ ngày càng tăng hơn trong những năm tới.
Thu nhập bình quân đầu người và nhận thức về sức khỏe tăng
Theo mục tiêu của Chính phủ, GDP bình quân đầu người của Việt Nam ước đạt 7.500 USD/năm vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 8%/năm theo Kế hoạch kinh tế – xã hội trong những năm tới.
So với các nước có GDP bình quân đầu người tương tự, ước tính chi tiêu cho y tế bình quân đầu người của Việt Nam có thể đạt 305 USD/năm vào năm 2030, với tốc độ tăng bình quân 8%/năm. Cùng với việc chi phí chăm sóc sức khỏe tăng cao, người dân cũng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến các dịch vụ khám sức khỏe theo yêu cầu như xét nghiệm máu, chẩn đoán các bệnh tiềm ẩn, tư vấn chế độ ăn uống, v.v.
Nguồn: SSI Research.
Số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy, số lần đến bệnh viện bình quân của mỗi người dân Việt Nam đã tăng từ 1,89 lần/năm 2010 lên 2,95 lần/năm 2020, cho thấy nhận thức về sức khỏe của người dân ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan (3,5 lượt/năm), Trung Quốc (4,9 lượt/năm) hay Nhật Bản (12,2 lượt/năm). Do đó, sẽ có nhiều tiềm năng cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong một nền kinh tế đang bùng nổ.
Nguồn lực tài chính cho ngành y tế dồi dào
Hiện nay, trên 90% dân số Việt Nam tham gia bảo hiểm y tế của Chính phủ (bảo hiểm y tế công). Như vậy, tỷ trọng chi từ ngân sách nhà nước trong tổng chi cho y tế của cả nước đã tăng lên 55% vào năm 2020 từ mức 26% năm 2010. Đồng thời, cơ sở hạ tầng y tế của Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể, với số lượng bác sĩ và số giường bệnh tăng nhanh trong những năm gần đây và vượt qua nhiều nước trong khu vực Châu Á.
Các quy định mới của ngành thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh
Chính phủ trong những năm gần đây đã thúc đẩy lĩnh vực chăm sóc sức khỏe phát triển theo hướng cạnh tranh lành mạnh hơn, giảm trợ cấp cho các bệnh viện công và nới lỏng các quy định trong ngành để bệnh viện tư nhân có thể cạnh tranh công bằng. Từ năm 2010 – 2020, nhiều quy định quan trọng đã được đưa ra nhằm cải cách ngành y tế.
Ví dụ, Nghị định 85/2012/NĐ-CP, Nghị định 16/2015/NĐ-CP là những quy định quan trọng giúp cạnh tranh công tư trở nên bình đẳng. Khi kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước ngày càng cạn kiệt, nhiều bệnh viện công sẽ khó duy trì hoạt động trước chi phí tăng cao, trang thiết bị lạc hậu và gánh nặng đầu tư đổi mới cơ sở vật chất. . Và do đó, chỉ có một số bệnh viện công có khả năng hoạt động hiệu quả khi tự chủ hoàn toàn về tài chính.
Ưu thế về chất lượng cơ sở hạ tầng y tế của các bệnh viện tư
Trong 10 năm gần đây (2010 – 2020), các bệnh viện tư nhân ở Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng với cơ sở vật chất tốt hơn, dịch vụ khám chữa bệnh đa dạng. Người dân bắt đầu đặt niềm tin vào các bệnh viện tư nhân với nhiều tên tuổi lớn đã được khẳng định như Vinmec, FV Hospital, Hoàn Mỹ, Tâm Anh, Medlatec….
Với thu nhập ngày càng tăng, người dân có xu hướng tìm đến các dịch vụ cao cấp hơn thay cho các dịch vụ y tế thông thường như chăm sóc hậu phẫu, điều dưỡng 24/7 và phòng bệnh riêng..., thúc đẩy mô hình bệnh viện-khách sạn và các dịch vụ VIP có giá gấp 2-3 lần giá viện công.
Tiềm năng cho thị trường dịch vụ y tế tư nhân cũng rất lớn do khu vực tư nhân ở Việt Nam chỉ đóng góp một phần nhỏ vào tổng cơ sở hạ tầng y tế. Ở các nước láng giềng, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 20% -40% số giường bệnh, trong khi ở Việt Nam con số này chỉ dưới 13%.
Nguồn: SSI Research.
Ngoài ra, mức lương và phúc lợi tốt hơn điều kiện làm việc hiện đại hơn cũng là một yếu tố thu hút nguồn nhân lực cho các bệnh viện tư. Lương y, bác sĩ tại các bệnh viện công hiện đang bị hạn chế bởi Thông tư 10/2015/TTLT-BYT-BNV, trong đó lương bình quân là 10,8 triệu đồng/người/tháng. Trong khi lương bình quân ở bệnh viện tư hiện tại lên tới 13,2 triệu đồng /người/tháng, theo khảo sát của Hiệp hội bệnh viện tư nhân Việt Nam năm 2018.
Ngoài ra, từ khi các bệnh viện tư nhân mở rộng, nhiều công nghệ, kỹ thuật khám chữa bệnh tiên tiến với kinh phí đầu tư lớn như rô bốt hỗ trợ phẫu thuật, liệu pháp tế bào gốc, xét nghiệm gen được áp dụng, giúp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Do đó, các bệnh viện tư nhân đang dần trở nên quan trọng hơn trong lĩnh vực y tế, mang đến cho họ cơ hội nhận được nhiều chính sách ưu đãi hơn từ Chính phủ trong thời gian tới.