Một loạt ngân hàng trung ương ở Mỹ, Anh, Ấn Độ và các nước khác đã thực hiện các đợt tăng lãi suất lịch sử trong nỗ lực kiềm chế lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỷ.
Theo New York Times, ngày 15/6, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm – mức tăng lớn nhất kể từ năm 1994. Chỉ vài giờ sau động thái của Fed, hàng loạt quốc gia khác như như Brazil, Ả-rập Xê-út, Thụy Sĩ và Anh cũng thông báo thay đổi lãi suất.
Dựa trên dữ liệu của FactSet, từ đầu năm đến nay, ít nhất 45 quốc gia đã tăng lãi suất và động thái này dự kiến sẽ tiếp tục trong tương lai gần.
Lãi suất cao hơn được cho là một công cụ mạnh mẽ chống lại giá cả tăng. Lãi suất cao làm cho việc vay vốn trở nên đắt đỏ hơn, tác động đến nhu cầu tiêu dùng và kinh doanh, từ đó dẫn đến đình trệ hoạt động kinh tế. Điều này cuối cùng sẽ làm chậm sự gia tăng của lạm phát, điều mà các ngân hàng trung ương mong muốn đạt được.
Đây là một hành động cân bằng tinh tế, gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách để kiềm chế lạm phát mà không làm chậm tăng trưởng. Trong khi đó, các nhà kinh tế và nhà đầu tư coi việc tăng lãi suất ngân hàng trung ương là một thách thức ngày càng khó khăn.
“Áp lực lạm phát dai dẳng và kỳ vọng xấu đi đang buộc các ngân hàng trung ương phải quyết liệt hơn. Khi các điều kiện tài chính xấu đi và tâm lý suy yếu, nền kinh tế thực có thể xuất hiện, “các nhà kinh tế tại nhà điều hành dịch vụ tài chính Barclays của Anh cho biết.
Fed dự kiến sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong năm nay. Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng đã phát đi tín hiệu rằng họ sẽ tăng lãi suất vào tháng 7 lần đầu tiên sau 11 năm. Ngân hàng Trung ương Canada cũng có thể thông báo một đợt tăng lãi suất lớn vào tháng tới, sau khi tăng lãi suất hai tuần trước. Nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới cũng đã công bố động thái tương tự.
Tuy nhiên, nền kinh tế duy nhất không nằm trong xu hướng này là Nga. Ngân hàng trung ương nước này đã tăng lãi suất trên 20% ngay sau khi Moscow tiến hành một chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine. Trong những tháng sau đó, Nga đã thực hiện 4 đợt cắt giảm để đưa lãi suất xuống mức trước chiến tranh.
Động thái tăng lãi suất của các nước trên thế giới là một khác biệt rất lớn so với cách tiếp cận chính sách sau khủng hoảng tài chính.
Trước khi COVID-19 bùng phát, các nhà kinh tế cho rằng thế giới có thể vẫn mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn của lãi suất thấp, lạm phát thấp và tăng trưởng thấp. Nhiều nước vào thời điểm đó đã bắt đầu giảm lãi suất.
Tuy nhiên, sau đại dịch, các gói kích cầu của chính phủ để đối phó với suy thoái kinh tế đã thúc đẩy nhu cầu. Chuỗi cung ứng đã bị gián đoạn do nhà máy ngừng hoạt động, vận chuyển khó khăn và thiếu lao động. Tổng hợp lại, những yếu tố đó đã tạo ra sức ép lên giá cả.
Cho đến nay, lạm phát không có dấu hiệu giảm bớt. Trong một báo cáo được công bố vào tuần trước, giá tiêu dùng của Mỹ đã tăng trở lại khi giá xăng tăng và nhiều hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh hơn. Cuộc chiến ở Ukraine có thể tiếp tục đẩy giá hàng hóa lên cao, trong khi nỗ lực kiềm chế sự bùng phát ở Trung Quốc và cuộc đình công của công nhân ở Hàn Quốc có nguy cơ làm gián đoạn hoạt động sản xuất.
Câu hỏi đặt ra hiện nay là liệu nền kinh tế toàn cầu có thể chịu được một chu kỳ tăng lãi suất không giống như bất kỳ chu kỳ tăng lãi suất nào trong lịch sử hay không. Các nhà kinh tế không có kỳ vọng cao.
David Malpass, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, nhận xét: “Cuộc chiến ở Ukraine, phong tỏa ở Trung Quốc, gián đoạn chuỗi cung ứng và nguy cơ lạm phát đình trệ đang đè nặng lên tăng trưởng. Đối với nhiều quốc gia, một cuộc suy thoái sẽ là điều không thể tránh khỏi ”.