Nếu FED muốn tránh lạm phát đình trệ trở lại, nó phải nhận ra khoảng cách rất lớn giữa lãi suất thực dưới thời cựu chủ tịch Paul Volcker và Jerome Powell – người đồng cấp hiện tại. Thật là hoang tưởng khi nghĩ rằng chính sách tiền tệ của Chủ tịch Jerome Powell có thể giải quyết được vấn đề lạm phát tồi tệ hiện nay.
Nguồn: Project Syndicate
* Bài báo thể hiện quan điểm của Stephen S. Roach
Ông Jerome Powell tội nghiệp! Với lạm phát của Mỹ gần chạm mức cao nhất trong 40 năm, Chủ tịch Fed biết mình cần phải làm gì. Ông bày tỏ sự ngưỡng mộ rất lớn đối với Paul Volcker (người tiền nhiệm của ông vào những năm 80) như một tấm gương để noi theo. Tuy nhiên, tôi biết rất rõ về Paul Volcker, và Powell không phải là Volcker.
Volcker là một công chức xuất sắc của Mỹ. Ông ta hút xì gà rẻ tiền, mặc quần áo nhăn nhúm, và ghét sự hào nhoáng của giới thượng lưu cầm quyền ở Washington. Di sản của ông là sự siêng năng và kỷ luật trong việc đối phó với cuộc Đại lạm phát.
Không giống như Fed hiện đại, ban lãnh đạo của Ben Bernanke đã tạo ra một kho công cụ hoàn toàn mới – thay đổi bảng cân đối kế toán, dịch vụ cho vay đặc biệt và tín hiệu định hướng chính sách. kết quả tiền tệ – phương pháp Volcker rất đơn giản, dễ hiểu và trực tiếp. Theo quan điểm của Volcker, chính sách tiền tệ bắt đầu và kết thúc bằng lãi suất. Anh ấy đã từng nói với tôi, “Trong trường hợp bạn chưa sẵn sàng cho việc tăng lãi suất, bạn có thể rời khỏi thành phố.”
Volcker đã tăng lãi suất lên mức chưa từng có trong giai đoạn 1980-1981 và có rất nhiều người muốn đẩy ông ra xa. Các cuộc biểu tình từ công nhân xây dựng, nông dân và các thành viên Quốc hội không ngăn được ông thắt chặt chính sách tiền tệ.
Vấn đề đã có từ lâu. Dưới thời người tiền nhiệm của Volcker, Arthur Burns, Fed tin rằng lạm phát là một phần của cấu trúc thể chế của nền kinh tế Mỹ. Giá cả được cho là ít liên quan đến chính sách tiền tệ hơn là sức mạnh của các liên đoàn lao động, áp lực pháp lý đối với bảo vệ môi trường, an toàn cho người lao động và trợ cấp lương hưu. Burns lập luận rằng các cú sốc về giá dầu và lương thực đã củng cố những thành kiến của thể chế đối với nền kinh tế Mỹ dễ bị lạm phát. Nói cách khác, lỗi nằm ở hệ thống kinh tế, không phải ở Fed. Các chuyên gia của Fed vào thời điểm đó (bao gồm cả tôi) lo ngại nhưng không phản đối.
Volcker đã làm được rất nhiều việc khi ông đảm nhận chức chủ tịch Fed vào tháng 8 năm 1979. Tại thời điểm đó, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,8% so với cùng kỳ năm ngoái và đạt 14,6% vào cuối năm. Tháng 3 năm 1980. Volcker quyết tâm tìm ra một ngưỡng lãi suất có thể đưa lạm phát của Mỹ trở lại trạng thái cân bằng. Dựa trên đường lối chính trị được thiết lập bởi Đạo luật Humphrey-Hawkins năm 1978, đạo luật chính thức hóa nhiệm vụ ổn định giá của Fed và hỗ trợ các hoạt động tập trung vào kiểm soát nguồn cung tiền, Volcker đã bắt đầu hành động.
Fed đã tăng lãi suất quỹ liên bang từ 10,5% vào tháng 7 năm 1979 lên 17,6% vào tháng 4 năm 1980. Sau đó, Volcker đã đảo ngược hướng đi, mặc dù thử nghiệm thiếu khôn ngoan này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. , với các biện pháp kiểm soát chấm điểm tín dụng vào mùa xuân năm 1980 sớm hơn so với việc tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, cuối cùng đã đẩy lãi suất lên đỉnh hàng tháng, đạt 19,1% vào tháng 6 năm đó. Năm 1981. Sau đó, cơn sốt lạm phát hai con số tan vỡ.
Cuối năm 1982, nước Mỹ chìm sâu vào suy thoái, lạm phát hàng năm giảm xuống dưới 4% và Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất. Fed đã hành động chậm rãi và thận trọng. Volcker sẽ không nghĩ đến việc “rời thành phố” cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ tại Fed.
Tôi tua nhanh 40 năm để giúp mọi người nhìn ra điểm yếu của Chủ tịch Jerome Powell hiện tại. Chắc chắn, thế giới bây giờ hoàn toàn khác so với lúc đó. Tuy nhiên, Feds ngày nay dường như không còn hồi ức về những sai lầm mà họ đã mắc phải trong thời kỳ cuối của Arthur Burns. Điều khó tin là vào năm 2021, các quan chức Fed đều coi việc lạm phát gia tăng chỉ là tạm thời.
Fed đã coi cú sốc Covid-19 giống như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và sử dụng một biện pháp kích thích tài khóa lớn để đối phó với sự sụt giảm nhu cầu kéo dài. Nhìn lại, đó là một sai lầm kinh điển. Trong khi các đợt đóng cửa liên quan đến đại dịch chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, chiến lược mở cửa lại hệ thống tài chính, kết hợp với nhu cầu (được hỗ trợ bởi kích thích tài khóa) đã gây ra sự bùng nổ lạm phát. phát tin. Và trong bối cảnh chuỗi cung ứng tiếp tục bị gián đoạn, sự phục hồi sau đóng cửa đã tạo ra môi trường thuận lợi cho xu hướng tăng lên của lạm phát.
Vấn đề của Powell càng rõ ràng hơn khi nhìn qua lăng kính của lãi suất thực được điều chỉnh theo lạm phát. Trong 51 tháng điều hành Fed (tính đến tháng 4 năm 2022), lãi suất quỹ liên bang thực trung bình là -1,95%. Quy định tiền tệ đặc biệt này chưa từng có trong thời hiện đại. Tỷ lệ quỹ liên bang thực trung bình là -0,05% trong tám năm dưới thời Burns, -0,7% trong nhiệm kỳ tám năm của Bernanke và -0,9% trong bốn năm dưới thời Janet Yellen.
Để so sánh, dưới thời Volcker, tỷ lệ quỹ liên bang thực trung bình trong tám năm là 4,4%. Hơn nữa, bất chấp các quyết định của Chủ tịch Powell trong một nỗ lực vô ích để giảm tác động của lạm phát, tôi tin rằng tỷ lệ quỹ liên bang sẽ duy trì dưới mức lạm phát vào năm 2023. Điều đó sẽ đẩy tỷ lệ trung bình của thời kỳ Powell lên -2,25% trong 59 tháng (kết thúc vào tháng 12 Năm 2022).
Tôi không tranh luận rằng Powell muốn sao chép chiến lược thắt chặt của Volcker. Nhưng khi Fed muốn tránh lặp lại tình trạng lạm phát đình trệ cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, Fed phải nhận ra khoảng cách bất thường giữa lãi suất thực 4,4% của Volcker và -2,25% của Powell. Thật là ảo tưởng khi tin rằng quỹ đạo chính sách cực kỳ thích ứng đủ để đối phó với vấn đề lạm phát tồi tệ của nước Mỹ hiện nay.
Giống như Volcker, Powell rất coi trọng sứ mệnh phục vụ người dân của mình. Thật không may, ông ấy đang làm sai cách.
Vài nét về Stephen S. Roach
Stephen S. Roach là một nhà kinh tế học người Mỹ và là thành viên cao cấp tại Viện Jackson về Các vấn đề Toàn cầu tại Đại học Yale và là giảng viên cấp cao tại Trường Quản lý Yale. Ông trước đây là cựu chủ tịch của Morgan Stanley Châu Á và là nhà kinh tế trưởng của Morgan Stanley.
Roach có bằng Tiến sĩ kinh tế tại Đại học New York và bằng cử nhân kinh tế tại Đại học Wisconsin – Madison.
Sau khi lấy bằng Tiến sĩ, Roach là thành viên nghiên cứu tại Viện Brookings ở Washington. Từ năm 1972 đến năm 1979, ông giám sát việc chuẩn bị các dự báo chính thức của Fed đối với nền kinh tế Mỹ. Từ năm 1979 cho đến khi gia nhập Morgan Stanley, Roach là Phó Chủ tịch Phân tích Kinh tế của Morgan Secured Trusts ở New York.
Roach đã làm việc với Morgan Stanley hơn 30 năm và là nhà kinh tế trưởng ngân hàng đầu tư từ năm 1991, là nhà kinh tế trưởng toàn cầu cho New York, London, Tokyo, Hong Kong, Singapore và Paris.
Ông cũng viết các chuyên mục hàng tháng cho tổ chức truyền thông quốc tế Project Syndicate.
Nguồn: VietStock