Các ngân hàng trung ương phải giải quyết một vấn đề với ba mục tiêu: chống lạm phát, hạn chế vay quá nhiều để đầu cơ tài sản, và tránh suy thoái. Điều này gần như là không thể.
NH Trung ương tìm cách “hạ cánh cứng giữa sương mù”
Ngày 15/6, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thông báo tăng lãi suất thêm 0,75% để đối phó với tình trạng lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ. Trước đó, vào tuần đầu tiên của tháng 5/2022, Fed đã tăng lãi suất lên 0,5% và bắt đầu thu hẹp bảng cân đối kế toán.
Việc bơm quá nhiều tiền vào nền kinh tế, cộng với lạm phát tiếp tục ở mức cao và kéo dài hơn dự kiến đã trở thành bộ đôi khiến lãi suất tăng, thu hẹp bảng cân đối kế toán với tốc độ nhanh hơn hiện nay. là bắt buộc.
Nhưng Fed cũng có một mục tiêu rất quan trọng khác để cân bằng: làm thế nào để tăng lãi suất và thu nhỏ bảng cân đối kế toán mà không gây ra suy thoái? Đây là điều mà nhà kinh tế học Mohamed El-Erian, Cố vấn Kinh tế trưởng của Allianz gọi là nỗi sợ hãi tăng trưởng.
Yếu tố lo sợ tăng trưởng chậm lại, thậm chí suy thoái đang dần trở thành nỗi lo lớn hơn cả lạm phát. Nguy cơ suy thoái của kinh tế toàn cầu đã bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trong các bình luận của Financial Times và The Economist. Trong nội bộ nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư, đây mới là chủ đề đáng quan tâm chứ không phải câu chuyện lạm phát.
Goldman Sachs ước tính rủi ro suy thoái của kinh tế Mỹ vào khoảng 35%. Ngay cả trong trường hợp Mỹ tránh được nguy cơ suy thoái, rủi ro vỡ nợ tín dụng trong nền kinh tế Mỹ vẫn còn đó.
Lạm phát cao ở nhiều nước ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân (ảnh: Bloomberg / Getty Images)
Nhưng dù sao thì Mỹ cũng đang có phong độ tốt hơn Anh. Đầu tháng 5 năm 2022, Ngân hàng Trung ương Anh đã tăng lãi suất lên mức cao nhất trong 13 năm, ở mức 1%. Nước Anh lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn cả Fed, khi lạm phát tăng vọt, họ phải chạy theo lạm phát chứ không thể tăng lãi suất quá nhanh vì sợ gây rối loạn kinh tế.
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh Andrew Bailey thừa nhận việc tăng lãi suất không phải là một tình huống tốt, giáng một đòn nữa vào các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải vật lộn với chi phí gia tăng do lạm phát. .
Tuy nhiên, cơ quan này vẫn buộc phải thắt chặt tiền tệ nếu không tình trạng dư thừa thanh khoản trong nền kinh tế có thể khiến lạm phát trầm trọng hơn. Ngân hàng Trung ương Anh dự đoán trong quý IV / 2022 và quý I / 2023, Vương quốc Anh có thể tăng trưởng GDP thực âm, đủ yếu tố để kết luận rằng nền kinh tế sẽ bước vào suy thoái.
Các thành viên của Hội đồng Chính sách Tiền tệ Anh thừa nhận việc các hộ gia đình nước này gặp khó khăn do lạm phát và lãi suất tăng là điều “không thể tránh khỏi”.
Vai trò của Ngân hàng Trung ương Anh là đảm bảo lạm phát giảm xuống 2% một cách bền vững trong trung hạn. Nhưng họ đang phải đối mặt với bài toán rất nan giải là tăng lãi suất để tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ nới lỏng quá lâu mà không đẩy nền kinh tế vào suy thoái.
Tăng trưởng GDP thực được dự đoán sẽ giảm 1% trong quý 4 năm 2022 nếu giá năng lượng tăng 40% như một số tổ chức dự đoán. Với kịch bản đó, lạm phát sẽ lên tới hơn 10% vào quý 4 năm 2022. Đây là mức cao nhất trong vòng 40 năm và làm giảm thu nhập thực tế của hộ gia đình, vì tiền lương sẽ không thể theo kịp với mức lạm phát cao như vậy.
Nói về sự khó khăn trong việc lựa chọn chính sách lúc này, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho rằng Fed cần cả tài năng và may mắn để đạt được “hạ cánh mềm”. Còn Chủ tịch Fed – ông Jerome Powell thừa nhận, để đạt được “hạ cánh mềm của nền kinh tế” là thách thức và không hề dễ dàng. Kết quả phụ thuộc nhiều vào các sự kiện ngoài tầm kiểm soát của Fed, nhưng vẫn cần hành động để đạt được điều đó.
Tờ Financial Times dẫn lời một nhà đầu cơ trái phiếu bình luận: “Hãy tưởng tượng bạn đang ở trên một chiếc máy bay và cơ trưởng thông báo rằng chúng tôi“ có thể ”sẽ hạ cánh suôn sẻ. Đối với hành khách, đây chắc chắn là một thông điệp đáng lo ngại ”.
Ngày 15/6, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thông báo tăng lãi suất thêm 0,75% để đối phó với tình trạng lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ.
Quá nhiều điều không chắc chắn
Nền kinh tế thế giới đang đứng trước nguy cơ kép: suy thoái và lạm phát cao kéo dài.
Nguy cơ “hạ cánh cứng” giữa sương mù của các Ngân hàng Trung ương Mỹ và thị trường châu Âu là có. Nếu nó xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến châu Á, cụ thể là Việt Nam?
Cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có gì rõ ràng, mặc dù có những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc đã bắt đầu bị ảnh hưởng và một số nhà xuất khẩu ở châu Á đã cảm thấy nguy cơ bị cắt giảm đơn đặt hàng. xuất khẩu khi chỉ số sản xuất của Mỹ – ISM không khả quan.
Hiện tại, có quá nhiều điều bất ổn. Một, không ai biết liệu các nền kinh tế lớn sẽ thu hẹp lại hay chỉ chậm lại. Thứ hai, cuộc chiến ở Ukraine và cuộc phong tỏa chống dịch ở Trung Quốc chưa rõ sẽ kéo dài bao lâu, tương ứng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc cung cấp hàng hóa cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu. Thứ ba, liệu các nước thuộc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ – OPEC – có tăng sản lượng dầu để giảm bớt áp lực lạm phát toàn cầu, từ đó giảm bớt áp lực lên các ngân hàng trung ương lớn?
Những dự đoán rằng thị trường lao động và chuỗi cung ứng sẽ trở lại bình thường vào năm 2022 cũng đang bị thui chột ở các nền kinh tế tiên tiến. Nhiều thị trường Mỹ và châu Âu vẫn đang gặp khó khăn do thiếu lao động trong nhiều lĩnh vực, thiếu lương thực, gián đoạn chuỗi cung ứng, nhiều doanh nghiệp thiếu nguyên liệu sản xuất, thiếu lao động hoạt động. Giá cả tăng cao là hệ quả của điều đó.
Trong tình hình hiện nay, các ngân hàng trung ương ở các nước phát triển buộc phải tăng lãi suất hoặc thắt chặt chính sách tiền tệ khi họ đã để chính sách tiền tệ quá lỏng lẻo trong đại dịch Covid-19 để hỗ trợ nền kinh tế. nền kinh tế. Nhưng việc tăng lãi suất quá mạnh sẽ không giúp ích nhiều cho việc kiềm chế lạm phát trong tình hình này.
Giải quyết đồng thời một vấn đề với ba mục tiêu: chống lạm phát, hạn chế vay quá nhiều để đầu cơ tài sản, tránh suy thoái. Điều này là không thể. Việc giết chết nền kinh tế bằng việc thắt chặt tín dụng quá mức sẽ không giải quyết được vấn đề lạm phát, nhưng nó có thể kéo nền kinh tế vào một cuộc suy thoái dài hạn và rất tốn kém để thoát ra.
Theo: TS Hồ Quốc Tuấn – Đại học Bristol, Vương quốc Anh