Việt Nam thu thuế khoảng 1.000 tỷ đồng/năm đối với khoảng 14 tập đoàn, công ty công nghệ lớn trên thế giới và 8 trang điện tử hoạt động thương mại điện tử.
Dư luận rất quan tâm đến việc quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh trên nền tảng số cũng như các dịch vụ khác của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Về chính sách và công tác quản lý thuế đối với lĩnh vực TMĐT, Tổng cục Thuế đã thông tin một số nội dung cơ bản.
Chính sách nộp thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Tổng cục Thuế thời gian qua đã ban hành nhiều văn bản trao đổi, đối thoại và hướng dẫn các Nhà cung cấp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới (gồm có Netflix) thực hiện kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật thuế Việt Nam.
Tại hệ thống quản lý thuế, số liệu cho thấy, hiện nay có khoảng 14 tập đoàn, công ty công nghệ lớn trên thế giới và 08 trang điện tử hoạt động TMĐT xuyên biên giới có thu nhập tại Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ thuế. Số thuế thu được thông qua các tổ chức, cá nhân Việt Nam khấu trừ, nộp thay vào khoảng 1.000 tỷ đồng/năm.
Từ năm 2018 đến hết tháng 9/2021, số thu thuế từ các tổ chức Việt Nam có ký hợp đồng quảng cáo trực tuyến với tổ chức nước ngoài không thành lập pháp nhân tại Việt Nam như Google, Youtube, Facebook… các đơn vị này đã khai, nộp thuế với tổng số tiền khoảng 4.099,68 tỷ đồng. Trong đó Facebook là 1576,72 tỷ đồng; Google 1.529,25 tỷ đồng; Microsoft 533,01 tỷ đồng.
Năm 2020, số thu thuế từ hoạt động TMĐT xuyên biên giới đạt khoảng 1.143,8 tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2021, con số rơi vào khoảng 1.017,38 tỷ đồng. So với năm 2020 bằng 88,95%.
Tổng cục Thuế vẫn đang tiếp tục có các văn bản đề nghị các công ty này thực hiện đầy đủ nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
Chính sách về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT
Tại Thông tư số 80/2021/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành có một chương riêng quy định về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu có hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam thì có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, đại lý thuế hoạt động theo pháp luật Việt Nam thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế với cơ quan thuế Việt Nam. Các hoạt động này thực hiện qua Cổng TTĐT Tổng cục Thuế từ 01/01/2022 khi Thông tư số 80/2021/TT-BTC có hiệu lực thi hành.
Nhà cung cấp ở nước ngoài thực hiện quản lý thuế theo nguyên tắc tự tính, tự khai, tự nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế, bình đẳng như doanh nghiệp trong nước.
Trong khi đó, cơ quan thuế sẽ phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan, ngân hàng thương mại cũng như cơ quan thuế các nước thực hiện các biện pháp quản lý thuế đối với các nhà cung cấp ở nước ngoài.
Mức thu (thuế GTGT và thuế TNDN) được thực hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT và thuế TNDN hiện hành.
Cát Anh